28/7/2020
SƠ KÍNH TÂN TRANG (Lược Gương Kiểu Mới)
Lưu Văn Vịnh
Phạm Thái phơi bày tâm trạng mình trong Sơ Kính Tân Trang- Lược Gương Kiểu Mới- viết năm 1804 khi đất nước đã yên ổn sau trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh, chàng nhìn lại cuộc tình của mình với người yêu đã khuất Trương Quỳnh Như qua nhân vật Phạm Kim và Quỳnh Thư, hai nguời thương yêu nhau, nhưng Quỳnh Thư phải tự vẫn vì bị ép duyên với viên Đô đốc Tây sơn “ phập phào thuốc giấy, ống nhổ bạc, tráp ngà voi” từ xứ Đàng trong ra Bắc :
vậy nên tính việc cầu hôn
mần răng tính đó cho tròn mới xong…
Đù ỏa sấu đá Đồng Nai ngầy ngà
Đây không đáng rể ông già ?
Gớm gan Đô đốc có là chi mô..
Chính Nguyễn Du cũng cùng tâm sự bực bội trước lớp quyền thế mới, ông từng chê trách quan binh Tây sơn ra đóng Bắc Hà trong Bài Ca Người Gảy Đàn Ở Thăng Long :
Chư thần Tây Sơn ngả nghiêng truy hoan suốt đêm
Phía tả phía hữu tranh nhau ném thưởng
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn
(Nguyễn Du viết năm 1813 để nhớ lại năm 1793 khi ra thăm anh là Nguyễn Đề đang làm quan với Tây Sơn).
Phạm Thái chỉ sống rất ngắn nhưng khá trọn vẹn kiếp nhân sinh bi thương giữa hí trường Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu XIX: ông đã có một người tình chết vì ông, ông đã đeo đuổi họp đàn với đẳng cấp để thực hiện một lý tưởng dù là ảo tưởng, ông đã là một nho sĩ, một chiến sĩ, đã mặc áo thầy tu để đi khuyến phả, ông đã đam mê, đã lựa chọn và đã sống gần như trọn vẹn ý hướng của mình, kể cả mươi năm cuối đời li bì trong sóng ruợu !
Phạm Thái lao mình vào kháng chiến từ năm rất trẻ, ông lên mãi Lạng Sơn nhóm họp với bạn học là Trương Đăng Thụ mưu đồ thực hiện một giấc mơ, chẳng may bạn chết đột ngột ông đành mang xác bạn về quê ở Ý Yên, Nam Định, nơi đây ông và cô em tài sắc của bạn là Trương Quỳnh Như mang lòng thương mến nhau. Mới đầu cũng chỉ là thư từ đi lại của đôi bướm trẻ trong vườn xuân đang nhộn nhịp cung bậc trái tim đôi tám hai mươi. Tình yêu là thế, chẳng cần phải gần gũi thân xác, chẳng cần một cái nắm tay, chỉ nhìn nhau trong khóe mắt cũng đã linh cảm tình vợ chồng lạc nhau mấy kiếp bỗng dưng được gặp lại nhau, khăng khít ngay phút giây đầu tiên và trái tim rộn ràng gõ chiếc đũa thần vạn kiếp làm ngày tháng vạn vật nở bừng bừng vào xuân. Nhưng rồi người mẹ Quỳnh Như lại muốn gả nàng cho một người phú hộ dù cha nàng vẫn có lòng mến mộ trang anh tuấn Phạm Thái. Nàng con gái họ Trương tuổi đôi mươi đành quyên sinh tuyệt mệnh, ôm mối tình đầu sang thế giới bên kia cho trọn lời nguyền ước. Phạm Thái dẫu có đổ lỗi cho duyên mệnh : “ ôi ! chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyên suồng sã” thì chàng vẫn nhận ra cái lỗi là cái lỗi mải mê lo chuyện trên mây của chính mình :
“ Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời cho nấn ná nhân duyên, nàng long đong phận gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh”..
Đứng trước linh hài của người yêu cũng giống như đứng trước một chiếc bè chở mộng từ từ trôi đi, không phải là trôi biến mất mà tựa hồ buông tay nhau, kẻ rời trần thế không muốn rời, mà người ở lại thì muốn đuổi theo giấc mơ của chính hồn mình về cõi mơ hồ ảo ảnh. Phạm Thái buông ra những tiếng nấc xoáy vào cõi lòng mình mà thật ra là muốn níu kéo một hình hài Tạo Hóa vừa xóa đi, như con chim ủ rũ trên cành ngơ ngác thấy cầu vồng ngũ sắc mới có đấy mà giờ sao lại nhạt nhòa tan biến :
Nương tử ơi !
chướng căn ấy bởi vì đâu ?
oan thác ấy bởi vì đâu ?
Thân hiếm hoi dường ấy, nỡ lòng nào lấy đôi mươi làm một kiếp không đoái cảnh phù sinh …ví dù kiếp tiên thù với tục , thì xưa kia vâng lệnh xuống trần chi ?
Cả bao năm sau, bên vò rượu, Phạm Thái vẫn còn ai oán dù thực chất là chàng đã thả mồi bắt bóng :
Túi tơ hồng trách ai xe mối
Đến nửa chừng bỗng nới dần ra
Căm vì một ả trăng già
Trêu ngươi chi mãi chẳng tha thế này.
Nếu chỉ trách duyên số tơ hồng ở tuổi đôi mươi thì chàng họ Phạm đã chẳng phải tiếp tục oán thán “trêu ngươi chi mãi chẳng tha”, chàng cũng như người tình Quỳnh Như cùng một căn chướng “ kiếp tiên thù với tục”, như rồng vàng tắm nước ao tù, vào đời mà không chấp nhận đời, khiến thế gian trở thành nơi đọa đầy, chính mình trở thành nạn nhân của kiếp sống:
Gian nan vì một chữ tài
Chẳng hay con Tạo quấy rầy ta chi !
Cái bẫy tâm lý đó dương ra bắt lấy bóng chim tuyệt mệnh khởi từ chính tâm huyết vùng vẫy bay lên ! Mà cổ kim, cho hay tài mệnh tương đố, có ai thỏa kiếp làm người ! cho dẫu có vào cõi Tiên cõi Bụt cũng không chắc gì đã xuông sẻ :
Nẻo tiên cũng khó tìm nơi hóa
Dấu Phật càng khôn xuống đấy tu
(Chiến Tụng Tây Hồ)
Khi người yêu đã chết, Phạm Thái vẫn còn sống được dăm năm say sưa trong lý tưởng phục Lê, kẻ sĩ lúc này đến chùa Tiêu Sơn khoác áo thiền sư che dấu hoạt động, đi khuyến phả khắp nơi để kết nạp đồng chí hay để thỏa chí ngao du mang vọng tưởng tráng sĩ đang hành hiệp vì nước? Cuộc sống thoát ra từ giấc mơ lồng lộng mang vẻ đẹp đủ mầu sắc: áo nâu sồng tu sĩ, bóng trăng bạc loang loáng thanh gươm, lại văng vẳng tiếng thơ lúc tình tứ, lúc tung hoành đi về giữa thực và mộng :
Căm gan, tóc cũng dựng lên
Tuốt gươm chém án ngâm thiên ca rằng
Làm trai cho thỏa chí trai
Trong trần ai chớ lụy ai tầm thường
Nhưng điều não nùng ê chề nhất là hăm hở tiến tới một cái đích mà cái đích lại không còn: triều đại ngắn ngủi Tây Sơn đã tan, chúa Nguyễn thống nhất đất nước năm 1802. Mới đầu nhân sĩ Bắc Hà còn ngại ngùng, Nguyễn Du vào tân triều không nói lời nào như vua Gia Long nhận xét, sau dần dần tỉnh táo nhìn thấy chúa Nguyễn cũng giống chúa Trịnh, mà chúa Nguyễn lại chưa từng ép vua Lê như chúa Trịnh khi xưa. Hẳn lúc này, một khoảng trống vô lượng vây quanh Phạm Thái mới 25, 26 tuổi đời, mới sống một phần tư thế kỷ mà mối tình đã vỡ, lý tưởng cũng tiêu, chàng tuổi trẻ tìm quên trong sóng ruợu, nổi danh Chiêu Lỳ, mà có lẽ chàng đã dùng chất men đưa hồn mông lung xuống âm cung thăm người vợ chưa cưới! Bây giờ sống ở dương gian đoạ đầy cũng chẳng hơn gì địa ngục khi hai cái phao của của kẻ sĩ là tình yêu và lý tưởng đều chìm nghỉm :
Chết về Tiên Bụt cho xong kiếp
Đù ỏa trần gian sống mãi chi !
Ở tuổi 30 Tiên Bụt chỉ mới ở vành môi, tới tuổi tri thiên mệnh chắc gì mấy ai đã đạt tới đại viên cảnh trí, nữa là Phạm Thái với chất đam mê ngùn ngụt, ông còn nhỏ ra từng giọt máu tâm tư thấm trên lược gương tình lụy, ngỡ lấy văn thơ mà giải thoát, ngờ đâu, ngôn ngữ giống sợi giây tơ hồng hóa hiện thành độc xà trong bóng đêm sầu hận đầy vơi !
Không chắc gì ông vẫn mặc áo nâu sồng khi đối tượng thù nghịch Tây Sơn đã xụp đổ, mà cho có khoác áo thiền sư thì trước sau ông vẫn là một thi sĩ với túi thơ bầu rượu và bóng giai nhân :
Vào Yên Tử, rất non cùng
Đàn xô nước suối, phách giong cây rừng
Đá sực sực, nước cồn cồn
chông chênh cửa động, chon von mái chùa
tu hành đã có sư cô
dễ đem ngàn nén mà mua tiếng cười
hơi văn của ông bồng bột tuổi trẻ, muốn đổi mới, vượt khuôn sáo, dạo nên nhiều âm thanh kỳ lạ : Lên Hùng Vương rất non cao, vào Yên Tử rất non cùng.., sư dịu dàng dọng, tiểu phong phanh hình với ý tứ rất phóng : chữ viết cua bò thơ rông chó chạy… Thơ văn Phạm Thái quả là tiếng trống giáo đầu cho dòng văn mới cuối thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX, nó tiếp tục mạch sống Bắc Hà trong khi Nguyễn Công Trứ, sinh cùng thời với ông (1778-1858), từ Nghệ Tĩnh vào Huế rất gần gũi miếng mồi đỉnh chung tước lộc của triều đại mới “ không công danh thì nát với cỏ cây” , hồi hộp ngồi đợi vua Nguyễn ra mà dâng Thái Bình Thập Sách ! Ngay cả Nguyễn Du, cũng từ Nghệ Tĩnh, từ bỏ hàng ngũ cũ mà nhập vào giữa – hàng thần lơ láo phận mình ra sao- Chỉ có Phạm Thái là trung thành với lý tưởng từ đầu đến cuối, ông sống trên quê hương Kinh Bắc, cái nôi của các phi hậu Lê Trịnh, ông chẳng vào khoa cử để mua danh, ông chọn nỗi đau, nỗi khổ, nỗi say, trên thớ đất đã sinh ra mình, một kẻ sĩ như thế mới là kẻ sĩ, trọng thơ, trọng bạn, trọng ruợu, trọng tình mất, trọng quê đau, trọng cả từng mảnh vỡ trong giấc mơ hồn mình, giữ được trọn vẹn sĩ khí của đàn nhóm thì dẫu thời, thế và cơ có mất nhưng trái tim tam bách dư niên hậu vẫn sắt vẫn son !
|