Tuyên ngôn nấm
Đa số dân Mỹ nghĩ rằng nấm ( gọi theo từ cũ là khuẩn ) – mushrooms là những thành phần tô xúp hay là kẻ xâm phạm một sân cỏ săn sóc tốt đẹp. Paul Stamets, một nhà nghiên cứu nấm không thuộc viện hàn lâm hay tổ chức nào làm khảo cứu về nấm phần lớn nhờ lợi tức tư công ty riêng của ông là Fungi Perfecti – Nấm Toàn Hảo, bán các nấm cho người sành sỏi hay nấm y dược, lại ưa chuộng một viễn cảnh rất lớn, đề cao trong sách ông viết năm 2005: Sợi Nấm Chạy : Cách nào Nấm Có thể Giúp Cứu sống Thế giới - Mycelium Running : How Mushrooms Can Help Save the World . Stamets tin tưởng nấm có thể là những tay thay đổi thời thế ở những lảnh vực tính chất khác nhau như y khoa, lâm nghiệp , thuốc sát( côn ) trùng- pesticides hay kiểm sóat ô nhiễm.. .
Một mạng tỏa khắp hành tinh
Dù nói rất thơ văn, ý niệm của Stamets là nấm bắt cầu cho các hệ thống miễn nhiễm con người và môi sinh có căn bản sinh học vững chắc. Trên cây tiến trào, các vương quốc động vật và nấm phát sinh từ một cành chung, chia rời nhau trước khi thực vật - cây cỏ tách ra . Và nấm khâu vá đời sống thực vật, động vật và ngay cả Trái Đất theo những phương cách cụ thể. Có chừng 1.5 triệu lòai nấm, gồm luôn cả men – yeasts và mốc meo- molds, song song với các nấm lớn- macrofungi . Mọi sinh vật này đều chia sẽ vài tính trạng chung với động vật : chúng hít oxygen và thở ra carbon dioxide như chúng ta làm, và chúng cũng dễ bị nhiểm nhiều mầm bệnh của chúng ta . Cũng như chúng ta, chúng thâu nhận năng lượng bằng cách tiêu xài những dạng đời sống khác thay vì quang ( tổng ) hợp- photosynthesis . Thế nhưng thân thể nấm khác hẳn thân thể động vật. Men là đơn tế bào, trong khi mốc meo và nấm lớn dùng dạng sợi – mycelium , những mạng lưới màng tựa sợi chỉ, mỗi sợi là một tế bào duy nhất dày, có thể nhiểm bệnh một trái cam thối, xâm nhập nhiều mẩu tây rừng gỗ hay nhập chung lại thành một ( tay ) nấm. Sợi nấm hấp thu dưỡng chất từ xung quanh và có thể mau lẹ thay đổi mô hình tăng trưởng và các cư xử khác phản ứng theo môi trường . Khi các nấm làm thuộc địa đất đai cách đây một tỉ năm, vài lọai thiết lập một hốc tường như thể là những kẻ phân hủy lớn ở Địa Cầu, then chốt cho việc sinh tạo ra đất. Các sợi nấm dò rỉ ra các enzym và acid, biến đá tảng thành những kim lọai đến gần được theo sinh học và gỡ rối các dây chuyền dài phân tử của chất hửu cơ thành những dạng tiêu hóa được. Các sợi nấm giữ đất lại với nhau, giúp đất giữ nước và cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây cối. Những lòai gọi tên là nấm trong rễ ( ? ) - mycorrhizal fungi dùng sợi nấm bao phủ hay xâm nhập rễ cây cối, cung cấp các hợp chất nitrogen ( chất đạm ) và các muối kim lọai đổi cho các đường từ sinh vật ký chủ ( khi một cây con đang ốm yếu dưới bóng râm của một cây lớn hơn, nhưng nấm này có thể cảm gíác được vấn đề và gửi đến cây con những chất nuôi nấng phụ thêm ). Nấm nuôi đông vật ; động vật trả ơn bàng cách làm lan tràn các bào tử nấm.
Để đuổi đi các mầm bệnh, nấm đã phát triễn một kho vỏ khí hợp chất kháng vi khuẩn và kháng virus, một tài nguyên các dân gian truyền thống thu họach dưới dạng trà nấm và thực phẩm. Alexander Fleming khai thác chúng theo thời trang cận đại hơn, khi cách ly ra penicillin từ mốc meo Penicillium rubens năm 1929. Nấm cũng có thể ký sinh và giết chết sâu bọ, kể cả những lòai gây rối chúng ta. Từ cả nghìn năm qua, con người cũng đã khai thác các nấm vi tiểu – micro fungi tạo đồ ăn, tỉ như phó mát, bánh mì, bia và rượu chát ( nho). Nhưng ở văn hóa Tây Phương, quyền lực của các nấm to lớn thường bị quên lãng, một thái độ Stamets gọi là tính “ sợ nấm quá đáng – mycophobia” ( có phần đúng vì lẽ có nhiều lòai giống nấm rất độc hại) hay “kỳ thị sinh học – biological racism” . Nấm bị bỏ vào các lon gia vị hay đặt ra ngòai vòng pháp luật khi chúng thổi bay đi mất ở nhiều trí óc.
Trí óc nấm
Khi bạn nhìn đến một nấm, cái gì bạn nhìn thấy là một tay – một trái ( fruit ) nấm . Nó trổi dậy từ một khối mô xơ tên gọi là sợi nấm ( khuẩn ti ), đi vào trong bất cứ vật liệu nào nấm tăng trưởng trên đó. Đối với mắt trần, sợi nấm giống như một đống xơ bông vải ( bông gòn ) hay những mạng tơ nhện- cobwebs . Tuy nhiên, nhìn qua kính hiển vi điện tử - electron microscope, đó là một dệt rối bong của các màng- membranes chia nhánh giống chỉ sợi, là những cơ cấu theo lời Stamets trông như một mạng lưới các tế bào bộ nảo . Và điều này theo ông biện cứ là chứng cớ nấm có một lọai thông minh nào đó.
Sự tương tự rất đáng ngạc nhiên. Các bộ nảo và các sợi nấm tăng trưởng các nối kết mới hay cắt xén bớt những nối kết hiện hửu, phản ứng với các kích thích môi trường. Cả hai sử dụng một dàn trải các tín sứ – sứ giả hóa học để truyền đi những tín hiệu suốt mạng tế bào ( một phần sợi nấm, chẳng hạn, có thể chỉ thị cho một sợi nấm khác gửi đi những dưỡng chất cách đó cả mấy trăm thước). Những cơ cấu tương tự của các mạng lưới nấm và dây thần kinh, như Stamets tin tưởng, phản chiếu sự kiện là cả hai hệ thống tiến trào để làm công việc như nhau, và thực hiện công việc với hửu hiệu tối đa. Và ông không ngừng ở đây. Stamets nhận thức các mô hình giống như sợi nấm trên kiến trúc thông tin của Internet, theo những khuôn mẫu - matrixes của lý thuyết sợi dây – string theory, các mẩu hình computers của mạng lưới chất đen – dark matter tràn ra khắp vũ trụ. Những tái diễn này, theo ông là những dấu hiệu của tiến trào thông minh tự cai quản thực tế . Ông viết ở sách Mycelium Running là “Thiên nhiên có khuynh hướng xây đắp trên những thành công của mình. Nguyên mẩu -archetype sợi nấm có thể nhìn thấy khắp vũ trụ”.
|
Nấm Trí Óc |
Con đường nấm Stamets đeo đuổi
Năm 12 tuổi doanh nghiệp cha phá sản và gia đình phân lìa . Ông lưu lạc nhiều nơi với mẹ và đến bang Pensylvannia, học vỏ công, sau đó đạt đai đen Tae kon và Hwa rang đô . Năm cuối trung học ông và anh bị đuổi khỏi trường vì bán cần sa cho các bạn học . Cho nên ông phải dời đến thành phố , bang và theo học trường công , tốt nghiệp trung học. Rồi nhập học ở ở Bang . Nơi đây, ông lang thang trong rừng, phía ngòai cư xá trường. Ông tìm ra và thử ăn các nấm gây ảo gíac psilocybin lần đầu tiên, trèo lên cây cao nhưng không xuống được vì bị nhiễm độc say sưa. Giông tố đến và ông bị mưa gió dồn dập. Một sét đánh gần đó và ông tưởng là sẽ chết bất cứ lúc nào, nhưng phong cảnh rừng mưa thật là đẹp đẻ. Ông rơi xuống đất rừng và trở nên yêu mến vũ trụ vô cùng. Ông suy tư về cuộc sống và cách nào thay đổi nó . Từ đó, ông cố học về nấm ; nhờ một sách xếp lọai nấm ông tìm thấy được psilocybes nơi nào ông muốn tìm , và ông bắt đầu thử nghiệm các bí ẩn các lòai nấm khác. Sau đó, ông theo học Đại học Evergreen State College ở thị trấn bang , muốn trở thành một nhà nấm học. Evergreen không có ban nào chuyên môn về nấm, nhưng lại khuyến khích những nghiên cứu độc lập. Ông theo học lớp về nấm và nghiên cứu nấm psilocybin của giáo sư Michael Beug, một nhà hóa học môi sinh. Ông bắt đầu sử dụng kính hiển vi điện tử, một hiếm có vào thập niên 1970 và bắt đầu chụp hình các cơ cấu tế bào nấm, sợi nấm và các bào tử cho các nhà khoa học trên thế giới. Khi tốt nghiệp năm 1979 , ông đã là một nhà khoa học lảnh vực, một nhà khảo cứu La Bô và một nhà phân lọai học tài ba .
|
Trồng nấm trong La Bô |
( Ở Việt Nam, kỹ sư nông học và giáo sư Thực vật học Pháp Roger đã xuất bản ở Hà Nội – Sài Gòn bộ sách phân lọai đồ sộ về các lòai nấm Đông Dương các năm 1940 -50 ? ). Fungi Perfecti là la bô đầu tiên, nuôi trồng nấm trong phòng tầng hầm nhà ông thuê, sống cùng vợ đã có 3 con riêng và đang mang thai con đầu tiên với ông . Ông bắt đầu bán nấm ăn ngon và xa lạ cũng như làm các cuộc diễn thuyết lấy tiền. Sau năm 1983 thăm viếng Trung Quốc, ông là người Hoa Kỳ đầu tiên bán ra các giống nấm y khoa Á châu nuôi trồng ở Mỹ. Cuối năm 1983, ông xuất bản cuốn sách Dân Trồng Nấm - The Mushroom Cultivator vẫn còn được xem là cần thiết cho các nhà trồng nấm trong nhà hay thương mãi. Năm 1984, nhờ bà con giúp đở, ông thành lập nông trang rộng hơn 10 mẩu tây ở Kamilche Point, cách vài km về phía Tây Bắc. Và ông cũng bắt đầu khám phá các quyền hạn của các nấm to lớn thay đổi hành tinh .
|
Paul Stamets trình bày trồng nấm ở Công ty Fungi Perfecti của ông. |
Cách nào nấm có thể thay đổi thế giới ?
Lúc này, Stamets bị những khả năng ám ảnh, ông gọi là “phục sinh nấm – mycorestoration” , một lảnh vực đang chớm dậy gồm luôn cả công trình ông và các nhà khảo cứu khác về “lọc nấm – mycofiltration”, “sửa chửa nấm – mycoremediation”, “lâm học nấm- mycoforestry” và “nấm diệt dịch bệnh- mycopesticides”. Ông cũng bắt đầu làm ra một thư viện di truyền, thu thập hàng trăm dòng – strains nấm, ông lượm hái được trong các rừng cũ miền Tây Bắc Mỹ và ở các chuyến du lịch đến Âu Châu , Á Châu , Nam Mỹ và Úc, có thể dùng cho môi sinh cũng như làm lành bệnh .
Cơ quan Bảo vệ Môi sinh – EPA Hoa Kỳ đã nhờ Stamets giúp đở các Lính Bao An Bờ Biển – Coast Guards làm sạch các nơi dầu phun chảy lọan tràn trề . Ông đã trả lời bằng cách sáng chế ra “Nấm bum,vang rền – mycoboom” , một ống vải thô chứa đầy các nấm bào ngư – oyster mushrooms ( Pleurotus ostreatus) họa kiểu dùng làm tan vỡ dầu lữa, trong khi trôi nổi trên một bải biển trơn trợt hay đặt chướng ngại vật.
|
nấm bào ngư – oyster mushrooms ( Pleurotus ostreatus) |
Có thể kể ra các nấm cứu sống, giải quyết các vấn đề nhân lọai Stamets khảo cứu như sau đây :
- Các nấm làm sạch môi trường có thể dùng làm tan vỡ các hóa chất dầu lữa hay hấp thu phóng xạ từ đât đai và nước bị ô nhiễm. Tỉ như các giống nấm bào ngư vừa kể trên .
- Các nấm lọc nước phế thải có những sợi nấm làm sạch nước chảy từ các cống thóat nước giông tố , nông trang hay đường rừng chở gỗ. Có thể dùng chúng lọc đi các nitrate, các chất làm gián đọan tuyến nội tiết – endocrine nay các cặn bã dược phẩm, làm biến lọan các hệ thống sinh thái và tai hại cho sức khỏe.
- Các nấm sát trùng – giết dịch bệnh – pesticides có thể dùng nhắm vào các lòai gây rối trong khi đó lại không độc hại cho các lòai khác tỉ như dùng Metarhizium anisopliae để giết mối và các kiến đục gỗ- carpenter ants bằng cách phun các bào tử nấm này trực tiếp trên mối hay kiến. Stamets cho rằng các sâu bọ này bị các bào tử nấm hút dẫn, tưởng lầm đó là một thức ăn. Nhưng khi ăn bào tử, các sợi nấm metarhizium nở ra giết chết chúng. Một dòng nấm Beauvaria bassiana có thể sửa đổi để hút dẫn và giết chết nhiều lọai sâu bọ.
|
Nấm Beauvaria bassiana |
- Các nấm y khoa có thể cung cấp các thuốc kháng sinh, hay kháng virus, hay làm các hợp chất thúc đẩy hệ thống miễn nhiễm hay ngay cả các phép chửa trị hóa học nữa. Tỉ như lòai nấm linh chi - reishi (Việt Nam đã sản xuất nhiều lọai linh chi hiệu nghiệm ) đã dùng trích thuốc kháng sinh ganomycin , các nấm đồng cỏ - meadow mushrooms làm kháng sinh campestrin và nấm lóng lánh trong tối lồng đèn- glow in the dark jack o ‘ lantern chế illudin S và nấm cỏ dày khổng lồ - giant puff balls chế calvacin , hay nấm đuôi gà lôi- turkey tail mushrooms chữa trị ung thư vú. Các nấm Agarikon Fomitposis officinalis có thể dùng chống lại cúm chim , cúm heo hay bệnh đậu mùa – smallpox .
|
nấm đuôi gà lôi- turkey tail mushrooms |
- Các nấm lâm học lòai cọng sinh như các loài nấm trong rễ -mycorhizal mushrooms có thể gia tốc tái lập trồng lại rừng những nơi rừng gỗ đã bị làm trọc.
- Các nấm trong rễ có thể giúp làm tăng hấp thu phân lân ở ngành nông.
- Chống đói có thể dùng các nấm mọc mau lẹ ở các trại tị nạn hay các vùng bị tai ương , vì chỉ dùng mặc cưa, mảnh gỗ hay rơm rạ thấm nước mặn .
- Trồng nấm làm nhiên liệu sinh học- diesel sinh học có thể cần ít đất đai và các tài nguyên khác hơn là cây trồng trọt thường lệ.
- Du hành không gian có thể dùng các lòai nấm chịu đựng được phóng xạ, trồng thay đất ở các chuyến du hành giữa các sao – interstellar và làm dạng đất- terraform cho các thế giới khác …
( Chiếu theo Kenneth Miller , nguyệt báo Discover ngày 7 tháng 7 năm 2013) |