25/9/2020
Cập nhật hiểu biết về:
Nước Cam Bốt ngày nay
G S Tôn Thất Trình
|
Chợ chánh ở Phnom Penh |
Vị trí, Phân chia hành chánh ngày nay
Vị trí
Nước Căm Bốt- Cambodia , Cambodge ngày nay nằm vào 13 0 00 vĩ tuyến Bắc và 1050 00’ kinh tuyến Đông. Tổng diện tích là 181 036 km2 ( 69 898 dặm Anh vuông ). lớn hon phân nữa diện tích Việt Nam đôi chút; 97.5 % là đất và 2.5 % là mặt nước sông, hồ. Biên giới dài 2530 km. Tây và Bắc giáp Thái Lan ( 2100 km ); Đông giáp Việt Nam ( 1137 km ) và Đông Bắc giáp Lào ( 492 Km ). Các sông chánh chia ra làm 3 lưu vực : Tonle Thom, Tonle Sap và Vịnh Thái Lan. Sông Mê Kông ở Căm Bốt chảy dài 486 km và hồ lớn nhất là Tonle Sap rộng 16 000 km 2 (1 600 000 ha ) .Nhưng núi cao nhất là Phnom Aural , chỉ 1810 m ( 5938 bộ Anh ). Núi đồi chiếm phân nữa tổng diện tích, phân nữa còn lại là các đồng bằng .
Phân chia hành chánh ngày nay
Tháng giêng năm 2014, Căm Bốt chia ra làm 24 tỉnh, tiếng Khmer gọi là khaet, vì có một tỉnh mới là Tbuong Khmum ( tách rời khỏi tỉnh Kampong Cham ) và một đơn vị hành chánh đặc biệt là Phnom( Phnum ) Penh. Tuy là một đơn vị khác Phnom Penh được xếp vào hàng tỉnh, cho nên thật sự Cam Bốt có 25 tỉnh. Một khu phố rộng lớn có đến 50 000 dân gốc Khmer ở thành phố Long Beach- Hoa Kỳ thường được gọi đùa là “ tỉnh thứ 24”, vì đây là tỉnh Miên -Khmer kiều đông thứ hai ngòai Căm Bốt . Đông dân nhất ngòai nước , có lẽ là vùng thủ đô Thái Lan Bangkok ( 1 200 000 ? ).
Các tỉnh Cam Bốt là :
Battambang, Kampong Cham, Siem Reab - Reap , Kampong Thum, Pouthisat , Kampong Spoe, Kampong Chnang, Prey Veng, Kampong, Takev - Takeo, Kampot, Banteay Mean Cheay, Kandal, Kracheh- Kratie, Kaoh Kong, Svay Rieng, Stoeng - Stung Treng, Mondul Kiri, Preah Seihanu , Preah Vihear, Rattana - Rotanah Kiri, Ota Mean Cheay , Krong Phnum Penh , Pailing và Keb- Kep . Mỗi một tỉnh lại chia ra làm nhiều quận - srok , districts . Năm 2010 , đếm ra 159 quận và 12 quận ở thủ đô Phnom Penh lại có tên Miên là khan. Mỗi tỉnh còn có môt quận làm tỉnh lỵ . Chẳng hạn tỉnh lỵ tỉnh Siem Reap là Srok Siem Reap. Quận ở Phnom Penh gọi là khan . Mỗi khan lại chia ra làm nhiều sangkhat. Sang khat chia ra thành nhiều phum, tương đương với các làng -xã. Nhưng một phum có thể có nhiều khu cư ngụ cách nhau khá xa . Ngoài các phân chia này , lại có thêm các krong- thị trấn lớn hay thành phố trên 50 000 dân, và krong -thị trấn có trên 10 000 dân thường là thị trấn tỉnh lỵ . Nay, các krong đều có hội đồng dân bầu lên và một “ đốc lý, thị trưởng- mayor “ cũng do dân bầu lên . Sau đây là dân số của 10 thị trấn lớn Căm Bốt, trên 50 000 người : Phnom Penh 1 558 000 người, Takeo 843 900, Kampong Som 156 000, Battambang 156 000, Siem Reap 139 000, Poipet thuộc tỉnh Banteay Meanchey 76 000, Kampong Chnang 75 000, Kampong Cham 61000, Pursat 52 000, Takhmau 52 000 . Tổng dân số trên 15 triệu năm 2004 . 90% là dân Khmer, nói tiếng Khmer , ngôn ngữ chánh thức. Các dân thiểu số chiếm 3 % tổng số dân Căm Bốt gồm Hoa , Việt và Chàm . Vài tộc dân địa phương- Khmer Thượng, sinh sống ở vùng núi non và ở các vùng cao nguyên. Tộc dân Khmer Thượng- Khmer loeu gồm có các tộc dân ear hay Por chuyên hái đậu khấu, hột gừng xanh- cardamones , Kouey chuyên làm thợ rèn , Kha , Samrès , Phnong-M’nong…
Lịch sử Cămbốt
Lịch sử Căm Bốt ( nên so sánh với các tài liệu Việt Nam đăng rải rác rác về Căm Bốt ở tập san “ Theo Dõi Bóng Dáng Quê Hương” tập I và tập II (đã xuất bản ) và tập III (đang xuất bản) về 63 tỉnh và thành phố nước nhà, đặc biệt là các tỉnh Trà Vinh, Đồng Tháp, Tây Ninh, An Giang , Đồng Nai , Vĩnh Long, Lâm Đồng, Gia Lai - Pleiku...
Dân gian Căm Bốt rất hãnh diện khi nói về lịch sử Căm Bốt . Có thể chia làm 11 thời kỳ.
Thời tiền sử và lịch sử ban đầu
Thời tiền sử và lịch sử ban đầu biết được phần nào là do dùng carbon 14 ở hang Laang Spean Tây Bắc Cam Bốt , đã xác nhận hiện diện các dụng cụ đồ đá từ 6000 đến 7000 năm trước Công Nguyên ( CN ) và đồ gốm -pottery từ 4200 năm trước CN. Theo nhóm khảo cổ Pháp -Miên , các khám phá từ năm 2012 , cho thấy là hang chứa các di tích của những nhóm người săn bắt và lượm hái , theo sau đó là nhóm thời kỳ đồ đá mới - neolithic có những cách săn bắt và dụng cụ làm đồ đá kỷ thuật cao phát triễn cao, cũng như làm và họa kiểu đồ gốm nghệ thuật tinh vi , cùng những thủ tục xã hội , văn hóa , tượng trưng và ma chay công phu tỉ mĩ. Lịch sữ Cam Bốt có thể đã hình thành ít nhất là 5000 năm trước CN.
Vương Quốc Phù Nam ( thế kỷ thứ I sau CN đến 550 )
Các chi tiết ghi chép về cơ cấu chánh trị trên lảnh thổ của Căm Bốt hiện đại, lần đầu tiên xuất hiện trên các sử biên Tàu , liên quan tới Phù Nam - Funan, một tổ chức nhà nước, Việt Nam còn gọi là Ốc Eo, bao gồm phần cực nam nhất của bán đảo Đông Dương vào thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 . ( Xem hình ở bài tỉnh Long An- Việt Nam để biết rõ vị trí của Phù Nam , Chenla, Phù Nam , Champa - Chàm hay Chiêm Thành vào các thế kỷ 400 -500 sau CN ). Trung tâm là Hạ lưu sông Mê Kông , Phù Nam -Ốc Eo đặc biệt có văn hóa Ấn độ - Hindu xưa cỗ nhất vùng , gợi ý một tương tác xã hội kinh tế lâu dài với giao thương biển phạm vi cầu tròn Ấn Độ phía Tây , nổi danh vào lúc đó là cảng biển , dưới chân núi Vọng Thê - Ba Thê, Kiên Giang ngày nay .
Vương Quốc Chenla ( thế kỷ thứ VI đến 802 )
Vào thế kỷ thứ 6, một nền văn minh mệnh danh là Chân Lạp - Chenla , Zhenla, theo sử biên Tàu, thay thế Phù Nam - Ốc Eo khi kiểm sóat một vùng Đông Dương rộng lớn hơn và cao thấp hơn , duy trì một trung tâm quyền lực lạ lùng. Vương Quốc Chân Lạp kéo dài từ thế kỷ thứ 6 đến năm 802 . Sử ký nhà Tùy -Sui Dynasty chứa các biên chép một quốc gia tên là Chân Lạp đã gửi một đại sứ đến Trung Quốc năm 616 hay 617 sau Công Nguyên. Sử nói Chân Lạp là chư hầu của Phù Nam , nhưng vào thời vua Citrasena -Hahendravarman lại chiếm Phù Nam và trở thành độc lập. Tuy nhiên sử gia Pháp Claude Jacques lại phủ nhận điểm này. Ý niệm là Chân Lạp nằm vào nước Lào cận đại cũng bị tranh cải . Ghi chép chánh trị quan trọng nhất của Căm Bốt trước thời đại Angkor là khắc ghi chép K53 của Ba Phnom , niên đại 667 sau CN, không chỉ dẫn một đứt quảng chánh trị nào cả ; hoặc của các trào vua kế tiếp nhau Rudravarman , Bhavavarman I, Citrasena - Mahendravarman, Isànavarman và Jayavarman I ; hoặc về tình trạng gia đình các chức quyền đã làm ra khắc chép này. Một khắc chép, vài năm sau K 44 năm 674 sau CN, kỷ niệm tưởng nhớ thành lập tỉnh Kampot dưới sự bảo trợ của Jayavarman I, nói tới một thành lập sớm hơn vào đời vua Raudravarma , có thể là Rudravarman của Phù Nam . Và một lần nữa không có gợi ý một đứt quảng chánh trị. Sử ký nhà Đường - Tang khẳng định là sau năm 706, quốc gia chia ra thành Lục Chân Lạp phía Bắc nước, và Thủy Chân Lạp nữa phần nước phía Nam ; đúng ra có lẽ nên gọi là Thượng - Upper và Hạ - Lower Chân Lạp. Vào cuối thế kỷ , Thủy Chân Lạp trở thành chư hầu của thời đại Sailendra - Java . Vua cuối cùng Chân Lạp bị giết chết và đất nước nhập vào vương quốc Java, khoảng năm 790 sau CN . Còn Lục Chân Lạp lại thành quốc gia độc lập thời JayaVarman II, năm 802 sau CN .
|
Nước Chân Lạp từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13, là lúc nền văn minh Khmer đã phát triển rực rỡ nhất ở đây. |
Đế quốc Khmer ( 802- 1431 )
Dân Khmers , chư hầu của Phù Nam đến sông Mekong từ phía Bắc sông Menam qua trung gian thung lũng sông Mun. Chân Lạp là một quốc gia độc lập đầu tiên của dân Khmers , dựng lên trên đất nước Phù Nam . Các ghi chép xưa cổ của Tàu nhắc tới hai vị, vua Shrutavarman và Shreshthavarman ngự trị ở thủ đô Shreshthapura , nằm ở Nam Lào cận đại ngày nay. Ảnh hưởng to lớn về cá tính của Căm Bốt sắp tới là do Vương Quốc Khmer Bhavapura dệt ra , từ thị trấn Căm Bốt cận đại là Kampong Thom . Di sản này có được là nhờ vua quan trọng nhất Ishanavarman đã chiếm tòan thể vương quốc Phù Nam , các năm từ 612 đến 628 . Vua đã chọn thủ đô mới là Sambor Prei Kuk , gọi tên nó là Ishanapura. Nhắc lại là vào thời nhà Lương nhân dân Giao châu-Việt Nam bị Tàu đô hộ có Triệu Quang Phục quật khởi phá quân Lương và Lý Phật Tử xưng đế , dưng nên triều Tiền Lý, độc lập hơn 60 năm. Bị danh tướng nhà Tùy là Lưu Phương đánh phá, vua Lâm Ấp ( tiền thân của Chiêm Thành ) là Phạm Chí dâng biểu xin triều cống, đến năm749 , Phạm Đầu Lê nối ngôi vẫn giữ triều cống nhà Đường. Năm 749 , vua Lâm Ấp đổi quốc hiệu thành Hòan Vương Quốc . năm 808 đô hộ Trương Châu nhà Đường đánh phá Hòan vương quốc , vua Hòan vuơng phải lui về Quảng Nam - Quảng Ngãi bây gìờ và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành- Champa .
|
Đế quốc Khmer vào thời điểm cực thịnh năm 900 (
Đỏ: Đế quốc Khmer,
|
Đế quốc Khmer được thiết lập vào đầu thế kỷ thứ 9 ( 802 ) đến thế kỷ thứ 15 (1431). Trong sáu thế kỹ, Đế quốc Khmer có đặc điểm là các công trình tiến bộ kỷ thuật - nghệ thuật ít ai sánh ngang được , cùng toàn vẹn chánh trị ổn định hành chánh. Đế quốc tiêu biểu cho tuyệt đỉnh văn hóa và kỷ thuật nền văn minh tiền công nghệ hóa của Căm Bốt và Đông Nam Á . Như đã nói trên, trước Đế quốc Khmer là Chân Lạp -Chenla, một thể chế có các trung tâm quyền lực chánh trị thay đổi , và biến thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp vào đầu thế kỷ thứ 8 . Cuối thế kỷ thứ 8 , Thủy Chân Lạp bị dân Mã Lai - Malays Đế quốc Srivijaya và dân Java của Đế quốc Shailandra thu nhập, rồi lại bị hội nhập vào Java và Srivijaya. Jayavarnam II, ngự trị Lục Chân Lạp , khởi sự một lễ hội tôn phong huyền thọai Ấn Độ - Hindu ở Núi Kulen ( Mount Mahendra) vào năm 802 sau CN, mục đích tuyên bố tự trị chánh trị và lên ngôi hợp pháp . Khi ông tự tuyên bố là thiên vương , vua trời - god king, trời bổ nhiệm không ai chối cải được; đồng thời ông cũng tuyên bố nước nhà độc lập, tách rời khỏi Shailandra và Srivijaya . Ông thiết lập thủ đô Hariharalaya ,thủ đô đầu tiên vùng Angkor, gần thành phố Roluos ngày nay. Các vua kế tiếp Jayavarman II, tiếp tục cư ngụ phía Bắc Hồ Tonle Sap. Trung tâm dân cư được đô thị hóa rộng rải , nằm trên một mạng hệ thống hồ dự trữ và kênh mương , xung quanh các cơ cấu dinh thự tôn giáo trung ương. Các năm 877- 889, Indravarman I và con là Yasovarman I các năm 889 - 900, vua thiết lập kinh thành Yasodharapura ra lệnh xây dựng những hồ nước đồ sộ - barays phía Bắc kinh thành . Quản trị mạng lưới nước tùy thuộc vào những hình dung phức tạp kênh, hồ, ao và đê đường dùng một số lượng khổng lồ cát pha sét , vật liệu xây cất có nhiều ở đồng bằng Angkor . Đê của hồ lớn Baray phía Đông - East Baray còn hiện diện đến nay , dài trên 7 km ( 4 dặm Anh ) và rộng đến 1.8 km ( 1 dặm Anh ) . Thành phần lớn nhất là Baray Tây - West Baray , một dự trữ dài 8km ( 5 dặm Anh ) và bề ngang là 2km ( 1 dặm Anh ) , chứa khỏang 50 triệu m3 nước . Vương quyền căn cứ trên ý niệm tôn giáo nước Ắn Độ Shivaite Hindu state và thờ phụng vua trung ương, xem như là một chiến vương -warlord và nhà bảo vệ- the varman . Hệ thống cai trị trung ương bổ nhiệm các công chức các tỉnh. Thời đại Mahidharapura mà Jayavarman VI là vị vua đầu tiên trị vì từ năm 1080 đến năm 1107, phát sinh phía Tây rặng núi Đăngrêk thung lũng sông Mun, làm gián đọan “ chánh sách lễ nghi - ritual policy” các truyền thống phổ hệ và chủ yếu là Ấn độ giáo-Hinduism , không còn xem là tôn giáo độc nhất quốc gia nữa. Vài nhà sử học liên kết suy thoái Đế Quốc Khmer với những gián đọan tôn giáo này .
Vùng bao gồm các thủ đô lan rộng khỏang 1 000 km2 ( 386 dặm Anh vuông ) ở nơi nay mệnh danh là Angkor. Phối hợp nông nghiệp lúa nước phức tạp căn cứ trên hệ thống tưới tiêu công nghệ và phong phú ngọan mực của Tonle Sap về cá và động vật nước, như thể một nguồn protêin dồi dào, bảo đảm một thặng dư thực phẩm thường xuyên. Những khảo sát địa lý mới đây, đã xác nhận là Angkor duy trì một ph ức tạp định cư rộng lớn thế giới, lớn nhất thời tiền công nghệ hóa các thế kỷ thứ 12 và 13, có chừng 750 000 dân sinh sống. Nhưng đám đông công nhân công cộng được tái phân phối đến xây cất các công trình và duy trì hạ tầng cơ sở .Một số lớn các nhà khảo cứu liên hệ các khai thác dần dần quá mức hệ thống kinh tế địa phương và các tài nguyên, song song phá với phá rừng kích thước đại trà mà thành quả là xói mòn to lớn , đưa tới Đế quốc suy vong. Dưới thời vua Surayavarman II ( 1113- 1150 ), Đế Quốc Khmer đạt lảnh thổ địa lý rộng nhất nhờ kiểm sóat trực tiếp hay gián tiếp Đông Dương , Vịnh Thái Lan và những vùng rộng lớn biển phía Bắc Đông Nam Á . Suryavarman II ủy nhiệm làm điện thờ Angkor Wat , thiết lập xong sau 37 năm, 5 tháp biểu hiện Núi- Mount Meru được xem là tiêu biểu nhất cho kiến trúc Khmer cổ điển. Tuy nhiên bành trướng lảnh thổ chấm dứt , khi Suryavarman bị giết chết trong cuộc chiến tranh cố xâm chiếm Đại Việt. Tiếp theo là một dịch chuyễn trị vì và bị Chàm xâm lăng, tột đỉnh là vụ cướp đọat Angkor năm 1177. Vua Jayavarman VII , trị vì từ năm 1181 đến 1219 thường được xem là vua uy thế nhất Căm Bốt. Vua là một nhà Phật giáo đại thừa - Mahayana buddhist , khởi sự triều vua bằng cách đánh trả và thắng Chiêm Thành- Champa . Trong gần 40 năm trị vì, vua trở thành một nhà xây cất dinh thự phong phú nhất, làm ra thành phố Angkor Thom với điện thờ trung ương là Bayon . Công trình ông làm gồm có : Banteay Kdei, Ta Prohom, Neak Pean và Sra Srang . Việc xây dựng một số dự án và kiến trúc vị lợi và tăng lữ thế tục , cũng như duy trì mạng lưới đường xá mở mang thời Suryavarman I , đặc biệt là vuơng lộ đến Phimai và nhiều dinh thự nghĩ dưỡng , cầu cống và bệnh viện khiến cho Jayavarman VII được xem là độc đáo trong các nhà vua trị vì.
Tháng 8 năm 1296,nhà ngọai giao Châu Đại Quan - Zhou Daguan đến Angkor và ở lại triều cung vua Srindravarman mãi đến tháng 7 năm 1297. Ông viết một bản báo cáo về đời sống Angkor. . Mô tả của ông là những nguồn hiểu biết quan trọng về lịch sử Angkor vì bản văn cống hiến những thông tin giá trị đời sống hằng ngày và các thói quen của dân Angkor . Khắc ghi chữ Phạn- Sanskrit cuối cùng năm 1327, ghi chép người nối ngôi Indrajayavarman là Jayavarman IX Parameshwara ( 1327 - 1336).
|
Đền thờ Angkor Wat là một trong những di sản của đế quốc Khmer. Ảnh: wikipedia.org. |
Đế quốc Khmer là một nước nông nghiệp gồm 3 giai cấp xã hội : thượng lưu, lao động và nô lệ. Thượng lưu gồm các cố vấn, các lảnh tụ quân sự , các triều thần,các tăng lữ , các nhà khổ hạnh tôn giáo và chức quyền. Lao động gồm mọi nhân công ngành nông và một loạt nghệ nhân cho các dự án xây cất . Nô lệ là người bị bắt ở các cuộc chiến dịch quân sự hay ở các làng xa xôi hẻo lánh . Không có tiền đúc và kinh tế trao đổi căn cứ trên các sản phẩm nông nghiệp, chánh yếu là lúa gạo và trao đổi hàng hóa địa phương không đáng kể ở nền kinh tế quốc gia .
Đọc tiếp Phần 2 |