11/9/2020
GÓP PHẦN BIẾN ĐỔI VIỆT NAM
QUA TÁC PHẨM TÌNH TỰ VỚI THIÊN NHIÊN VÀ CUỘC SỐNG
GS Thái Công Tụng
Dẫn nhập
Tất cả đều lưu chảy - Panta Rei, trong dòng biến dịch của hữu thể và thời gian. Mọi tạo vật theo quy luật phủ định của phủ định, hủy đi rồi nảy mầm, sinh hoa kết trái trong đa dạng sinh học, tưởng chừng trước sự biến đổi vô thường qua tư tưởng của Heraclite: “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Như vòng biến của dòng sinh thái theo triết gia Nietzche “Cuộc đời là sự chuyển tiếp và suy tàn”, nhưng nơi đây sự kết tinh đặc thù trong dòng chảy từ những dữ liệu thật khoa học mang lại những giá trị phổ quát về môi trường nhằm biến đổi thiên nhiên mang bộ mặt con người, như triết Kant từ những cảm nghiệm thường nghiệm trong cuộc sống với phương pháp thực nghiệm đưa đến những tri thức khoa học, viên mãn trong cái đẹp ‘eithesos’ – mỹ học mang tính nhân văn qua những bài viết của nhà môi trường học Giáo sư Tiến sĩ Thái Công Tụng.
I. Đất và con người
II. Nước và con người
III. Lửa và con người
IV. Gió và con người
V. Biển và con người
VI. Rừng và con người
VII. Thế giới thực vật quanh ta
VIII. Hỡi anh đi đường cái quan
IX. Làng mạc và nông nghiệp Việt Nam
X. Môi trường và sức khỏe người lớn tuổi
XI. Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo
XII. Đa dạng sinh học qua thơ văn Việt
XIII. Các hệ sinh thái trong truyện Kiều
XIV. Các giá trị Phật học trong truyện Lục Vân Tiên
XV. Gia đình nhìn theo quan điểm hệ thống
XVI. Năng lượng xanh ở Việt Nam
XVII. Tài nguyên tái tạo được tỉnh Thừa Thiên
XVIII. Môi trường và phát triển bền vững
XIX. Non cao tuổi vẫn chưa già
XX. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá
XXI. Biến đổi khí hậu và vấn nạn lương thực toàn cầu
XXII. Từ đồng bằng Trị Thiên đến núi rừng Phi châu
XXIII. Một ngàn ngày trên triền núi Himalaya
XXIV. Hải đảo Haiti và tôi
Biên soạn: Nguyễn Quang
Link:Amazon.com - Link: http://www.amazon.com/gp/product/150079015X/sr=8-1/qid=1409062764/ref=olp_product_details?ie=UTF8&me&qid=1409062764&sr=8-1
***
Trích chương XX. Thế nào là 4D trong toàn cầu hóa
THẾ NÀO LÀ 4D TRONG TOÀN CẦU HÓA
1. Dẫn nhập về toàn cầu hóa
● Khi trận đá bóng chung kết giữa hai đội Pháp và Ý diễn ra ở Berlin tháng 7 năm 2006, trước con mắt hàng tỷ người trên thế giới, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, ta thấy trong đội cầu Pháp có đến một nửa là dân da đen và dân Bắc Phi!
● Nghe tin tức quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh, TV5 của Pháp, thì hình ảnh một chuyện nào đó mới xảy ra vài phút trước đó ở một nơi xa xăm trên hành tinh Trái Đất (một xứ nào đó bên Phi Châu, bên Trung Đông, bên Nam Mỹ...) thì trên màn truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra ngay, vừa hình ảnh, vừa tiếng nói.
● Nhìn bảng hối suất ta thấy nhiều đồng tiền có thể hoán chuyển dễ dàng; đặc biệt Âu châu có Euro là đơn vị tiền tệ cho rất nhiều xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc kia đi du lịch từ Pháp qua Đức, qua Ý, qua Espagne lại phải thay đổi đồng tiền sang mark, sang lire, sang peseta...
● Bệnh SARS (viêm phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các xứ Đông Nam Á và qua Canada do sự lưu thông hành khách máy bay rất nhanh chóng
● Hàng năm, có chừng 250 ngàn người di dân đủ mọi chủng tộc, màu da, tôn giáo đến xứ Canada, đến hợp pháp! Có thể nói mọi xứ từ A (A như Angola), đến Z (Z như Zimbawe) đều có người ở đất nước Canada, khiến xã hội Canada càng ngày càng trở thành đa văn hoá.
Vài ví dụ trên đã cho ta 'hương vị' thế nào là toàn cầu hoá.
2. Tiến trình của toàn cầu hóa.
● Toàn cầu hóa, danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80, nhưng thực sự đã có từ lâu đời với Magellan, với Marco Polo, với thương mãi các xứ quanh bờ biển Địa Trung Hải, với con đường tơ lụa buôn bán giữa các xứ Trung Đông, Cận Đông và Trung Hoa. Việt Nam đã buôn bán với Nhật qua thành phố Hội An. Các nước Anh, Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm kiếm thị trường buôn bán. Chiến tranh nha phiến Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuốc phiện. Đến năm 1930 xảy ra cơn suy trầm kinh tế rất lớn, nên nhiều nước như Mỹ chủ trương bảo hộ thương mãi.
● Chỉ sau đệ nhị thế chiến, các nước bắt đầu nhận thấy phải tăng cường hợp tác thương mại. Các nước Âu Châu họp bàn thành lập thị trường chung qua nhiều giai đoạn:
a. Thoạt đầu là các thỏa thuận ưu đãi thuế quan: hàng rào quan thuế giữa các nước tham dự thấp hơn so với các nước không tham dự.
b. Sau đó tiến đến khu vực mậu dịch tự do (zône de libre échange, free trade area) xóa bỏ các cản trở thương mại giữa các nước thành viên.
c. thứ đến là liên minh thuế quan (union douanière) xoá bỏ thuế quan giữa các nước thành viên, hài hòa giữa các nước thành viên và chính sách thương mại.
d. rồi mới đến thị trường chung (marché commun) có tự do lưu chuyển lao động và vốn giữa các nước,
e. sau đó tiến đến liên minh kinh tế, thống nhất tiền tệ thành EURO, với quốc hội Âu châu và hiến pháp Âu châu.
● các nước Đông Âu và Liên Xô cũng lập thị truờng chung COMECON, nhưng vào thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 khi Liên Xô và Đông Âu tan rã với hệ thống xã hội chủ nghĩa thì tổ chức này cũng tan theo.
● các nước Đông Nam Á họp lại thành tổ chức ASEAN bao gồm 10 xứ Đông Nam Á (Việt, Miên, Lào, Thái, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapour, Myanmar (tức Miến Điện). Các xứ này đang tiến dần đến chỗ giảm thuế quan để giúp hàng hóa cạnh tranh nhau, đưa đến tiêu thụ mạnh hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất nghiệp.
● Bắc Mỹ cũng có NAFTA (North America Free Trade Area). Mậu dịch tự do, có nghĩa là giúp các hàng hóa tự do lưu thông giữa nước này với nước kia, cắt giảm quan thuế, bãi bỏ các hạn chế phi quan thuế v.v...
Với công nghệ thông tin phát triển như vỡ bờ qua trung gian của hàng ngàn vệ tinh nhân tạo bay quanh Trái Đất, các trao đổi và liên lạc thông tin đã giúp thế giới càng ngày càng gần hơn, nhỏ hơn, và là một nhân tố thúc đẩy sự tự do thương mại giữa các nước, thoạt đầu với Thỏa thuận chung về Thuế quan GATT (General Agreement on Tariff and Trade), tức tiền thân của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO, viết tắt từ World Trade Organization) ta thấy ngày nay.
Với toàn cầu hóa, các sản phẩm sản xuất ra có một thị trường tiêu thụ rộng lớn ở khắp toàn cầu, giúp tăng lợi nhuận, làm đầu tàu kinh tế kéo theo các lãnh vực khác; thực vậy, thị trường trong xứ thì nhỏ hẹp, không nhiều người tiêu thụ. Cũng chính vì Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ khổng lồ nên các doanh nghiệp Mỹ, Đức, Nhật v.v... mới đầu tư sản xuất tại đó nhiều, từ xe hơi của Đức làm ở Thượng Hải đến các công ty điện tử, điện thoại vì thị trường càng lớn thì quy mô sản xuất cũng lớn (économie d'échelle) làm giảm giá thành, tiêu thụ sâu rộng, lời lãi nhiều.
Với toàn cầu hóa, các nước quy định phải giảm thuế nhập cảng, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, cấp giấy phép xuất-nhập cảng nên mọi hàng nhập cảng đều rẻ, khiến người tiêu thụ mua sắm thoải mái.
Với toàn cầu hóa, các đầu tư, các dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, các hàng hóa sẽ được lưu thông tự do hơn, giúp tiêu thụ mạnh hơn.
Toàn cầu hóa có nghĩa là thị trường sẽ tự do trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải. Toàn cầu hóa bao gồm nhiều lãnh vực nhưng riêng trong lĩnh vực kinh tế tài chính, có thể tóm lược trong 4 chữ D sau đây cho dễ nhớ.
3. Thế nào là 4 D trong toàn cầu hoá?
3.1. Délocalisation
Toàn cầu hóa đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về chất lượng; các xí nghiệp phải có mặt hàng rẻ, bền, đẹp mới cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
Thực vậy, trước kia, các nước để bảo hộ sản xuất trong nước nên đánh thuế nặng vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng với các hiệp định tự do thương mại, mọi mặt hàng đều từ từ giảm thuế xuống hết (0-5%).
Do đó, vào luồng trong sự gia nhập thương mại quốc tế đòi hỏi phải có các sản phẩm nhiều, chất lượng tốt, giá rẻ mới cạnh tranh được với các hàng xứ khác. Đó là lý do nhiều xí nghiệp các nước kỹ nghệ tổ chức sản xuất các cơ phận khác nhau tại các xứ nhân công rẻ như Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc. Thực vậy, trong xe hơi, có thể động cơ sản xuất bên Nhật, bánh xe ở Mexico, ráp cuối cùng tại Mỹ. Máy điện toán thì bộ nhớ 'chip' chế ở Singapore, các linh kiện khác chế ở Mexico, ráp cuối cùng ở Mỹ v.v...
Ngày nay, không thể có và cũng không nên có một nền kinh tế tự cung, tự cấp cho mỗi xứ mà trái lại phải tìm trong xứ đó các lợi thế so sánh, xem mình có ưu điểm ở đâu, ưu điểm thế nào và nhất là khai thác cái ưu điểm ấy ra sao?
Ví dụ : Canada có nguồn nước vô tận, sản xuất điện rẻ nhất. Mexique cũng như các hải đảo miền Caraibes có mặt trời và nắng ấm và đó là một lợi thế so với Canada, mùa đông dài hun hút nên kỹ nghệ du lịch và dịch vụ rất phát triển; riêng Việt Nam thì giá nhân công rẻ nên cần có các kỹ nghệ tận dụng nhân công như may mặc, giày dép...
Không xứ nào độc lập về kinh tế được hết vì không xứ nào có đủ nguyên liệu để sản xuất sản phẩm. Máy bay sản xuất ỏ Canada hay ở Mỹ phải có nhôm mà nhôm phải lấy ở các xứ nhiệt đới. Vùng Chicoutimi tại Quebec có nhiều nhà máy sản xuất nhôm vì điện năng Quebec dồi dào, nhưng quặng bauxit phải lấy từ Jamaica, Haiti,... Tương tự đồng dùng trong các dây điện là xuất xứ từ các mỏ bên Chili, Congo v.v... Chiều hướng toàn cầu hóa là sự phân công lao động trên bình diện quốc tế, ví dụ: sản xuất sẽ chuyển mạnh vào các nước kém phát triển, còn các nước phát triển cao sẽ sống nhờ dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng v.v...
3.2 Déréglementation. Sự giải tỏa các quy lệ (déréglementation hay dérégulation) có nghĩa gỡ bỏ sự can thiệp của nhà nước, tư hữu hoá những công ty quốc doanh, giúp cải tổ cấu trúc nhân dụng (labor structure)
3.3. Désintermédiation. Không cần trung gian vì với toàn cầu hóa, các thông tin có sẵn trên mạng. Các cổ phần, cổ phiếu bán tự do ai mua vào cũng được, ai bán ra cũng được. Mọi dịch vụ ngân hàng phụ thuộc vào truyền thông mà truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ hẻm nhờ máy vi tính, nhờ truyền hình, nhờ truyền tin, xử dụng máy vi tính để mua, bán, chuyển ngân… với Web, với e-commerce. Trong lãnh vực mua, bán, người ta có thể khảo giá vé máy bay, vé xe lửa, đặt chỗ trước khách sạn, mua vé máy bay qua Internet. Trong lãnh vực nhân sự, con người với mạng Internet có thể giao cảm, tìm kiếm thông tin dễ dàng nhanh chóng; các tán gẫu (chat), các thảo luận liên lục địa của các công ty đa quốc gia, phỏng vấn nhân viên cũng qua Internet với Webcam: người xin việc có thể được phỏng vấn ngay trên mạng, không cần bay đến chỗ phỏng vấn. Trong lãnh vực tài chính, mọi người chỉ cần máy điện toán là có thể mua, bán cổ phần chứng khoán, các công ty đa quốc gia có thể chuyển tiền từ lục địa này sang lục địa khác trong nháy mắt.
3.4. Décloisonnement. Trước kia, các thị trường có hàng rào mậu dịch (trade barrier) bảo hộ, với toàn cầu hóa, không còn hàng rào che chở nên thị trường rộng mở, từ hàng hóa đến dịch vụ, đông người tiêu thụ hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất nghiệp. Vì các hàng rào thương mại giữa các nước bị xóa bỏ nên các dòng tài chính di chuyển dễ dàng, tạo vốn đầu tư cho các nước có môi trường đầu tư tốt, thông thoáng, có nguồn nhân lực giỏi. Ví dụ: Thỏa thuận bầu trời mở thay thế cho 21 thỏa thuận hàng không song phương tồn tại trước đó giữa Washington và các nước châu Âu nên không thể có đường bay trực tiếp đến nước này. Điểm chính của thỏa thuận này là nó cho phép bất kỳ hãng hàng không nào của Liên hiệp châu Âu bay từ bất kỳ nơi nào trong khối đến bất kỳ điểm nào ở Mỹ và bay tiếp sang nước thứ ba và ngược lại. Điều này trước đây không thể thực hiện được.
4. Các cơ hội và thách thức trong toàn cầu hóa
4.1. Nói qua về các thử thách
a. về nông nghiệp. Mỗi năm, các nước chậm phát triển phải nhập cảng phân bón, thuốc diệt cỏ, diệt sâu với giá cao hơn, nhưng bán nông phẩm như gạo, như cà phê với giá rẻ hơn. Như những trận mưa rào đôla nông nghiệp, các nước phát triển nghĩa là thuộc OCDE (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla mỗi năm, -xem như 1 tỷ đô la mỗi ngày- cho nông dân để họ sản xuất thực phẩm với giá phải chăng và để họ có mức sống tương đương mức sống ở thành thị. Trợ cấp dưới nhiều hình thức như cho vay lãi xuất rẻ, bớt thuế, khảo cứu nông nghiệp v.v... Nhật Bản và Đại Hàn muốn bảo vệ sản xuất gạo trong nước bằng cách đánh thuế cao trên gạo nhập cảng. Hai nước này trợ cấp cho nông dân rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1 đôla gạo sản xuất ra trong nước thì phải trợ cấp 80 cents cho nông dân. Pháp, Mỹ, Thụy sĩ v.v... đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các nước này thặng dư lương thực, thặng dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu ăn, thặng dư lúa mì, thặng dư đậu nành, thặng dư bắp..., nên họ phải bán rẻ hay cho không các nước, đặc biệt là Phi Châu. Nông dân Phi Châu phải ra thành thị, tạo thêm thất nghiệp và kéo theo bất ổn chính trị. Các nước chậm mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất cảng lương thực cho các nước Tây phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ no. Ví dụ: Việt Nam xuất cảng gạo nhưng các vùng xa, vùng sâu là địa bàn cư trú người sắc tộc miền núi non còn chưa đủ no. Ấn Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng gần 260 triệu dân còn bấp bênh lương thực (tạp chí Le Courrier số 197 Mars/Avril 2003).Các nước nghèo mà kinh tế nông nghiệp là chủ chốt lại muốn các nước tiền tiến cắt giảm trợ cấp nông nghiệp và thuế quan để có thể xuất cảng nông sản được:
- đường mía sản xuất ở Bresil rất rẻ nhưng các nước Tây Âu chỉ muốn nhập cảng đường mía từ các xứ cựu thuộc địa ở miền Caraibes như Tobago & Trinidad, Barbados v.v...
- bông vải xứ Mali ở Phi Châu không xuất cảng được sang các nước Âu Châu vì mua bông vải ở Mỹ rẻ hơn, vì ở Mỹ, nông dân được trợ cấp.
- gạo Thái Lan không xuất cảng qua Nhật được vì nông dân Nhật cũng được trợ cấp khi sản xuất gạo. Giá thành sản xuất gạo ở Mỹ năm 2002 là 475USD một tấn gạo nhưng vì được trợ cấp nên bán ra thế giới với giá 275 USD một tấn do đó bắt buộc các nước xuất cảng gạo như Việt Nam, Thái Lan cũng phải xuất cảng với giá đó.
Thực vậy, vấn đề nông nghiệp chính là vấn đề gay cấn nhất trong các đàm phán tương lai, đặc biệt là ở hội nghị thương mãi họp ở Cancun (Mexico) năm 2003 vì lập trường khác biệt giữa các xứ.
Như vậy, chính sách thương mại trong toàn cầu hóa phải tăng cường công bằng xã hội chứ không nên làm tăng hố cách biệt giàu nghèo.
b. về y tế. Với toàn cầu hóa, sự du lịch, đi lại, nhập cư được thông thoáng hơn nhưng cùng đó, sự di chuyển các bệnh truyền nhiễm, từ cúm gà đến bò điên v.v... các bệnh lây lan về tình dục như AIDS cũng nhanh hơn, gây ra thêm gánh nặng y tế trong khi đó thì lợi tức của các chính phủ bị giảm do việc cắt giảm thuế quan trên mọi hàng nhập cảng nên kéo theo giảm chi cho các ngành y tế, giáo dục… Nhiều thuốc trị bệnh hiểm nghèo được bảo vệ tác quyền đến hàng chục năm do hiệp định TRIPS viết tắt từ Trade-related aspects of intellectual property rights, có nghĩa bảo vệ các lãnh vực của quyền sở hữu trí tuệ, do đó Việt Nam cũng như mọi nước nghèo khác không có quyền sản xuất thuốc đó bán rẽ cho người đau.
c. về tệ nạn xã hội. Do di chuyển thông thoáng, các buôn bán phụ nữ, trẻ em, các tội ác xuyên biên giới như ma túy, vũ khí, nguy cơ khủng bố cũng cũng dễ dàng hơn
4.2. tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng tạo ra những cơ hội: các doanh nghiệp nước ngoài sẽ đem vốn liếng, kỹ thuật cao, lối làm việc do đó các doanh nghiệp trong nước cũng phải cải tổ lối làm việc, cạnh tranh hơn, sáng tạo hơn nếu không sẽ bị đào thải .
Với toàn cầu hóa, khu vực tư trong nước không bị chèn ép bởi các xí nghiệp quốc doanh. Toàn cầu hóa đưa thông tin đến mọi nhà, thông tin khoa học, kinh tế, chính trị… nên xã hội bắt buộc phải cởi mở hơn, giúp dân trí cao hơn.
Toàn cầu hóa giúp cho người dân không có huyền thoại như thời Việt Nam còn dưới bóng Liên Sô, các huyền thoại mà nhà thơ Việt Phương, -nguyên trợ lý cố Thủ Tướng Cộng sản Phạm Văn Đồng- đã viết sau này:
..,'Ta cứ nghĩ là đồng chí rồi không còn ai xấu nữa
Trong hàng ngũ ta chỉ dành cho chỗ yêu thương
Đã chọn con đường đi
Chẳng ai dừng ở giữa MạcTư khoa còn hơn cả thiên đường
Ta nhất quyết đồng hồ Liên Sô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ
Hình như đây là ý chí, niềm tin, tự hào
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao...'
Toàn cầu hóa về kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước mới xuất cảng được. Nó đòi hỏi những công nghệ mới, kỹ năng mới, quản lý hiện đại giúp sản xuất có hiệu quà hơn, tạo sản phẩm có chất lượng hơn với giá cả rẻ hơn, tạo điều kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Ngoài ra, nếu các nước kỹ nghệ như Âu châu hay Mỹ thấy Việt Nam có giá thành quá thấp là họ nghĩ ngay Việt Nam bán phá giá nên họ đánh thuế nhập cảng cao như Âu Châu đánh thuế trên giày dép, Mỹ đánh thuế trên tôm v.v…
5. Toàn cầu hóa với Việt Nam
Như vậy, gia nhập vào Tổ chức Thương Mại Thế giới (World Trade Organization WTO) có nghĩa Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường về hàng hóa (từ nông phẩm đến xe hơi, hàng hóa điện tử...) và dịch vụ (y tế, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, giáo dục, năng lượng...). Điều này hàm nghĩa các doanh nghiệp Việt Nam phải ra sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong quản lý, trong sản xuất, trong tiếp thị, trong giá năng lượng, trong giá cước điện thoại, giá thuê đất v.v... để có sản phẩm rẻ, đẹp và mới, tạo điều kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Việt Nam có lợi thế nhân công rẻ, phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi, -nghĩa là trong sạch, không tham nhũng- cho những công ty, những doanh nghiệp ngoài nước đến đầu tư. Thực vậy, càng ngày nhiều doanh nghiệp các nước kỹ nghệ muốn đầu tư tại các xứ nhân công rẻ hơn. Thực vậy, lương tháng người thợ ở Việt Nam năm 2005 ở mức 135 Mỹ kim trong khi tại Thái Lan là 146, Trung Quốc là 163, Malaysia là 205 và Philippines là176. Như vậy chi phí thấp ở Việt Nam là một lợi thế... Song song theo đó, Việt Nam cũng cần đào tạo thêm nguồn nhân lực có kỹ năng cao để thu hút các ngành có chất xám cao, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giúp nâng cao mức sống. Ví dụ tại tỉnh Bangalore ở Ấn độ, có nhiều xí nghiệp Mỹ, Canada đến đầu tư vì xứ này đào tạo nhiều chuyên viên điện toán giỏi và lương thấp hơn so với kỹ sư các nước kỹ nghệ .
Trong nông nghiệp thì với toàn cầu hóa, khi các cam kết cắt giảm thuế trong AFTA (Asian Free TradeArea) và WTO được thực hiện thì có nhiều loại nông phẩm sẽ bị nhiều cạnh tranh hơn: đậu nành, bắp sản xuất tại Việt Nam thì khó cạnh tranh với nông sản Mỹ vì tại Mỹ, các khảo cứu về bắp, đậu nành rất tiến bộ, tạo ra nhiều giống cải thiện năng xuất cao. Việt Nam thì quy mô kinh tế sản xuất manh mún nên giá thành cao. Do đó, Việt Nam phải tìm các lợi thế so sánh trong nông nghiệp, sản xuất những sản phẩm không bị cạnh tranh với các nước khác như trái cây nhiệt đới, rau cải tươi, ngư sản, đó là chưa nói đến phải chuyển đổi nông nghiệp như giảm số nông dân, chuyển từ sản xuất sang dịch vụ, huấn nghệ lại v.v…
6. Kết luận
Nền kinh tế thế kỷ 21 này là một nền kinh tế xu hướng càng ngày càng khu vực hóa, toàn cầu hóa với đổi trao, thay vì khai thác và lấn chiếm như xưa. Nhưng sự đổi trao đó đòi hỏi một tinh thần liên đới và trách nhiệm:
● liên đới giữa các nước giàu/nghèo, giữa các nước mở mang/các nước kém mở mang với mục đích là để vực dậy các nước nghèo, thoát khỏi cùng cực triền miên. Trong một nước, sự tăng trưởng kinh tế do toàn cầu hóa mang lại phải được chia xẻ cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ một bộ phận xã hội. Sự phát triển kinh tế phải có tính cách bền vững, không phát triển trên nợ nần của các thế hệ tương lai.
● trách nhiệm vì toàn cầu hóa có thể giúp các mặt tiêu cực xã hội lan nhanh hơn, các tổ chức mafia in bạc giả, rửa tiền, buôn ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em tội ác, khủng bố do đó mọi xứ có trách nhiệm hợp tác để ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa trước khi tội phạm xảy ra. Một nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường cần có những thể chế, quy tác, luật pháp, trong đó có việc tăng cường kiểm soát các ngân hàng bằng giám sát chặt chẽ hơn.
Chúng ta sống trên con thuyền, thuyền chìm thì cộng đồng nhân loại cũng chìm luôn. Con người như vậy phải tập sống bao dung, bao dung với tôn trọng sự khác biệt văn hóa, màu da, tín ngưỡng nhưng trong một khung cảnh luật pháp ở đó quyền ăn nói, quyền làm người phải được tôn trọng. Quyền hành dù là chính trị, văn hóa, truyền thông, tín ngưỡng phải đi đôi với trách nhiệm. Con người gồm thân và tâm. Của cải vật chất dĩ nhiên là quan trọng nhưng còn có các giá trị tâm linh không thể mua hay đo bằng tiền bạc. Hạnh phúc con người không thể đo bằng bit hay byte mà sự quán chiếu nội tâm để hiểu được bản thân mình có thể còn quan trọng hơn là biết mọi chuyện trên thế giới trong chớp mắt nhờ Internet. Các đền đài, các di tích lịch sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ quát không thể đo bằng tiền. Một khu rừng, một dòng sông có giá trị thẩm mỹ, huyền bí, mơ mộng, tình yêu, thần thoại, tâm linh, lãng mạn chứ không thể xem như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Nhiều vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như lăng miếu, đền đài có linh hồn như thơ của Lamartine (Objets inanimés, avez-vous donc une âme?...). Các giá trị văn hóa phức tạp hơn là các giá trị tài chính. Không thể xem cái gì cũng là mặt hàng đổi chác buôn bán được.
Mọi vấn đề liên hệ đến nhau: bệnh dịch toàn cầu SARS là một ví dụ; khủng bố World Trade Center cũng là một ví dụ khác. Từ vụ 911 này, du lịch sút kém khiến máy bay không ai đi, nhà hàng không ai đến, do đó nhân viên hàng không bị đuổi và vì máy bay không ai đi nên các hãng sản xuất máy bay phải sa thải nhân viên v.v... Như vậy các vấn nạn không những liên hệ với nhau mà lại có sự gia tăng những yếu tố bất định không đoán trước được, chúng phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau với những gián đoạn, những hỗn loạn, rẽ hướng, như tăng trưởng các vũ khí nguyên tử tại các xứ Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc Hàn, khủng bố Hồi giáo bảo căn v.v...
Nhưng vấn đề cốt lõi lại chính lại là một vấn đề văn hóa: làm sao cho thế giới không phải là một sân chơi cho các cầu thủ hạng nặng (các xứ giàu có) mà là một sân chơi đa dạng trong đó mọi dân tộc tham dự chia xẻ các khổ đau, các an lạc, các thành quả, tạo ra một hiền hòa giữa người và người, một hài hòa giữa người và thiên nhiên, nghĩa là tạo một nền kinh tế có bộ mặt con người, trong một tinh cầu nhỏ bé (Trái Đất) trong giải Thiên Hà bao la.
Thái Công Tụng |