02/6/2020
SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH CANH TÁC CẦN SA TẠI CÁC TIỂU BANG CỦA HOA KỲ
Nguyễn Văn Khuy
Sự gia tăng các tiểu bang được phép trồng cần sa để bán cho mục đích giải trí đang trở nên một ngành kinh doanh lớn tại Hoa Kỳ. Không những giúp cho các nhà trồng tỉa mà còn đem lại sự phát triển cho các ngành liên hệ như sản xuất các hoá chất , phân bón, thuốc bảo vệ hoa mầu cũng như các dụng cụ , máy móc, dùng trong nông nghiệp . Ngoài ra cũng giúp cho ngành khoa học thiên nhiên với nỗ lực nghiên cứu để tìm hiểu về đặc tính thực vật, dược tính và kỹ thuật canh tác hữu hiệu , áp dụng phân bón thích hợp, các loại côn trùng , mầm bệnh phá hoại cũng như đặc tính di truyền của cây.
Hiện nay đã có 14 tiểu bang được phép trồng cần sa cho nhu cầu giải trí và 22 tiểu bang dùng trong lãnh vực y dược .Vài năm trước đây việc xử dụng cần sa dưới mọi hình thức đều bị cấm theo luật liên bang, trừ lãnh vực y khoa. Tuy nhiên thăm dò thống kê cho biết có khoảng 30-50 triệu người Mỹ xử dụng cần sa bất hợp pháp. Để thỏa mãn nhu cầu lớn trong thời gian này việc sản xuất, buôn bán cần sa rất phức tạp, gía cả thay đổi bất thường và nguyên tắc áp dụng cũng thay đổi hàng ngày.
Các nhà trồng tỉa phải học cách thương mại trong bóng tối , gía bán chợ đen rất cao . Người trồng không thực hiện các kỹ thuật canh tác theo khoa học mà chỉ do truyền khẩu nên phạm những sai lầm. Các nhà vườn không quan tâm đến phương diện phẩm tính , chẳng hạn như các hóa chất bảo vệ mùa màng vẫn còn tồn tại ở các bộ phận của cây khi thu hoạch . Ngoài ra chưa kể các cặn bã còn sót lại sau giai đoạn trích lọc để cho ra các sản phẩm cuối cùng, bán trên thị trường ,khi phải dùng các dung môi như CO2, butane, hoặc nước.
Như cơn thủy triều đang lên, việc sản xuất cần sa đem lại một nguồn lợi kinh tế lớn.The Office of Economic Analysis của tiểu bang Oregon cho biết thương vụ hàng năm đã lên tới $480 million. Tiểu bang được hưởng 17 % tiền thuế giá bán lẻ cho nhu cầu giải trí.
Bây giờ được phép trồng hợp pháp nên muốn tồn tại phải cạnh tranh. Các nhà trồng tỉa phải tuân theo qui định của luật pháp tiểu bang và áp dụng đúng kỹ thuật canh tác tân tiến. Những cuộc khảo cứu thêm cần được tiến hành để biết các côn trùng và mầm bệnh phá hoại cũng như các loại phân bón thích hợp . Ngoài ra môi trường và yếu tố di truyền cũng ảnh hưởng đến các hóa chất thiên nhiên được sản xuất ra trong cây, sự phản ứng hỗ tương giữa các hoá chất này có độc hại cho bộ óc con người hay không. Những vấn đề này cần phải có các khoa học gia nhiệt tình với công việc khảo cứu và phát triển sản phẩm mới .
Cây cần sa có tên khoa học là Cannabis Sativa ,thuộc họ thực vật Cannabacae, nguồn gốc miền Đông Á Châu. Cây được phát hiện và đặt tên bởi Carl Linnaeus, một nhà thực vật học Thụy Điển, vào năm 1753. Có ba giống cần sa , sativa , indica (còn được gọi là marijuana), và ruderalis, phân biệt do nhân hình (genotype), tượng hình (phenotype) và nồng độ các hoạt chất thiên nhiên trong cây khác nhau .
Tuy nhiên do di truyền liên tục , phối hợp mạnh mẽ cũng như ngẫu biến và xuất hiện ở những vùng địa lý khác nhau nên các khoa học gia cho rằng chỉ có một loài duy nhất là Cannabis Sativa. Vì thế giống Indica còn được gọi là Cannabis Sativa Indica. Giống Indica có thời gian trồng ngắn , bụi rậm rạp, lá rộng và ngắn , chịu được khí hậu lạnh, lượng THC cao hơn CBD, trong khi Sativa thì ngược lại.
Cannabis Sativa
Lịch sử của cây cần sa cho biết được trồng để lấy sợi (fiber industry) và dầu trong hạt ( seed oil ), dùng làm dược phẩm, thực phẩm, đèn dầu, tôn giáo v,v. Các vị thánh Hindu đã hút cần sa từ nhiều thế kỷ và người Mexico được phép dùng cần sa vào những ngày lễ tôn giáo. Tất cả các bộ phận của cây đều dùng được tùy theo mục đích xử dụng.
Các quốc gia trồng cần sa như Afghanistan, Canada, China, Colombia, United States, India, Jamaica, Lebanon, Mexico, Morocco, Netherlands , Pakistan, Paraguay, Spain, Thailand, Turkey and South Africa.
Trước đây bộ máy di truyền (genome) của Cannabis vẫn còn là một sự huyền bí. Hoa Kỳ chỉ cho phép dùng hạn chế trong lãnh vực y khoa nên thiếu tài chính yểm trợ cho công việc khảo cứu , vì thế khó tìm ra những bí mật của loại hoa mầu mà mẹ thiên nhiên đã sinh ra từ lâu đời trên hành tinh này. Hiện nay mới chỉ có một số ít các nhà khảo cứu trên thế giới tìm hiểu về đặc tính di truyền của cây cần sa. Một nhà nhà khoa học thực vật của the University of Minesota ,George Weiblen, đã khám phá được genetic code sau hơn mười năm nghiên cứu.
Khởi sự ban đầu ,George tìm hiểu về genome của họ thực vật Arabidopsis , một họ hàng của Brassica như canola, mustard và broccoli. Trong khi hàng ngàn trang giấy được phúc trình về Brassica thì chỉ có vài chục trang cho Cannabis. Tuy nhiên sau này nhờ sự tiến bộ của DNA-sequenching technology và bioinformatics nên đặc tính di truyền của Cannabis được lần lượt khám phá nhanh chóng hơn.
Hai hoạt chất chính, cannabionid, có trong cần sa là tetrahydrocanabinol (THC) và cannabidiol (CBD). Khảo cứu cho biết hai chất này được tạo ra qua một tiến trình sinh hóa của cây khá phức tạp, không đơn giản. Trước tiên cây sản xuất hai hợp chất tetrahydrocannabilonic acid (THCA) và canabidiolic acid (CBDA) từ một chất sơ đẳng , cannabigerogic acid (CBGA).
Tùy theo bộ máy di truyền ,cây sản xuất ra hai loại synthase enzymes khác nhau để biến đổi CBGA thành THCA và CBDA . Sau đó hai hóa chất này được biến đổi thành THC và CBD là hai cannabinoids có nồng độ cao nên được dùng nhiều trong việc chế biến các sản phẩm thương mại. Cây cần sa có 113 cannabinoids khác nhau nhưng phần lớn chỉ có nồng độ rất nhỏ.
Cần sa có thế trồng trong nhà (indoor) hoặc ngoài trời (outdoor). Canh tác trong nhà có thể thực hiện ở khắp mọi nơi , trồng được cả bốn mùa , không cần thiết ánh sáng mặt trời và ảnh hưởng khí hậu. Các điều kiện canh tác như nhiệt độ, ẩm độ, phân bón , đều có thể kiểm soát và điều chỉnh dễ dàng . Ngoài ra không cần một diện tích đất lớn, chất dinh dưỡng và nước tưới cho cây được tiết kiệm do hệ thống tự động.
Ngoài ra trồng trong nhà sẽ dễ dàng kiểm soát được ẩm độ để không bị nấm mốc phá hoại, cây không bị cháy nắng, côn trùng khó xâm nhập. Ánh sáng cung cấp được dùng bởi light-emitting diode lighting systems nên tiết kiệm được năng lượng.
Cũng như các hoa mầu khác, cây cần sa cũng bị phá hoại bởi nhiều loại côn trùng và nấm bệnh. Vì là loại hoa mầu mới được chấp thuận trồng bán trên thị trường nên các hóa chất bảo vệ mùa màng rất giới hạn , chưa được chính phủ chấp thuận cho xử dụng. Tuy nhiên có thể áp dụng phương pháp sinh học như dùng các loại côn trùng và vi khuẩn tốt để tiêu diệt các tác nhân gây hại. Cách thức này còn tránh được những độc chất còn sót lại trong sản phẩm sau khi thu hoạch nếu dùng phương pháp hóa học.
Spider mites, loại mạt nhện, biết giăng tơ để bảo vệ các con nhỏ, trích hút diệp lục tố, để lại các đốm trắng trên cây. Tránh dùng quá nhiều phân đạm, xịt nước lên cây để rửa với áp xuất cao. Dùng các các loại côn trùng hữu ích ( predatory insects ) để diệt spider mite như các loại mạt (mites) ,Phytoseilulus persimilis, Neoseilulus californicus và Mesoseiluslus longipes. Các hoá chất trị côn trùng như pyrethrum và Neem oil.
Aphids, loại rầy ăn sáp trên mặt lá, gieo rắc các vi khuẩn từ các loại cây khác. Triệu chứng lá bị đổi mầu vàng rồi khô héo. Rầy tiết ra chất mật để lôi cuốn kiến tới phá hoại thêm. Cách ngăn ngừa là không dùng qúa độ phân đạm, trồng xen kẽ các loại cây có mùi hương thơm như lavender, rosemary, basil , sage, marigold. Phương pháp sinh học, dùng các loại côn trùng để diệt aphids như convergent lady beetles (bọ rùa), aphid predator midge và green lacewing. Các hóa chất trị côn trùng , pyrethrum, aradirachtin và potassium salts of fatty acids.
Nematodes, phá hoại rễ cây, làm cây tăng trưởng chậm , cây còi đi, lá nổi sần sùi và đổi mầu vàng. Cách đề phòng là dùng các thuốc sát trùng, trồng xen kẽ các loại cây có mùi thơm như marigolds. Các hóa chất có thể dùng để trừ nematodes như Pasteuria penetrans, Neem oil và Tri-chonema-L , là một sản phẩm sinh học
Powdery mildew, lan tràn rất nhanh trên lá, làm cản trở quang hợp, tạo ra các đốm trắng và xám trên lá . Ngăn ngừa bằng cách kiểm soát ẩm độ , tăng cường không khí luân lưu. Các thứ thuốc trị nấm mốc như Neem oil, sodium hay potassium bicarbonate, bacillus amyloliquefaciens, bacillus subtilis, horticultural oils và giant knotweed extract.
Số lượng nông trại trồng cần sa càng ngày càng gia tăng nên sự canh tranh gía bán không thể tránh khỏi . Vào đầu năm 2019 gía bán sỉ marijuana đã giảm xuống $2.00 dollar/g tại các tiểu bang Oregon , Colorado và Washington. Phantom Farms cho biết họ đã có kế hoạch giảm gía bán xuống $1.00 dollar/g, áp dụng phương pháp canh tác indoor.
Canh tác cần sa hợp pháp sẽ mang lại lợi tức khá lớn cho các nông gia. Một cuộc nghiên cứu cho biết đến năm 2020 thương vụ bán marijuana sẽ tăng lên hơn một tỉ dollar. Các công ty kỹ nghệ khác cũng đã nhìn thấy tương lai nên khởi sự đầu tư vào lãnh vực này. Tobacco giant Altria đang đầu tư 1.8 billion dollar vào Canadian cannabis company Cronos Group , để sản xuất các sản phẩm mới có chứa cannabidol, trong khi thương vụ thuốc lá cổ truyền đang trên đà suy gỉảm.
Các công ty sản xuất rượu và nước giải khát cũng như thuốc lá cũng dự trù đầu tư vào lãnh vực biến chế các sản phẩm mới có cần sa. Công ty Canadian marijuana Canopy Grow (CGC) đã nhận được nhiều tỉ dollar từ Corona owner Contellation Brands để đầu tư và phát triển thêm do thị trường đòi hỏi . Coca-Cola (KO) và Coke’s archrival Pepsi (PEP) tuy chưa chính bước chân vào nhưng được tiên đoán không thể đứng ngoài một thị trường mới, nhiều lợi nhuận, đầy hứa hẹn này .
|