Khai hóa và khai thác của Pháp ở Nam Kỳ. P2

Chánh sách khai hóa và khai thác

của thực dân Pháp tại Nam Kỳ

Phần 2

Lâm Văn Bé
 

1. 2- Khai hóa vật chất : thiết lập hạ tầng cơ sở

Khi vừa chiếm được Saigon, Pháp đã nổ lực biến Saigon thành thủ phủ của Nam Kỳ, bằng cách xây dựng hạ tầng cơ sở, xây cất công thự, công viên như các thành phố Tây Phương với ý định biến Saigon không phải chỉ là  trung tâm của một thuộc địa khai thác kinh tế mà còn  là thuộc địa di dân. Để biểu tỏ điều nầy, ngay từ năm 1865, đô đốc De La Grandière, người khai sáng chế độ thuộc địa Nam Kỳ đã đem cả gia đình sang định cư ở Saigon và ông đã phải trả giá cho hành động gương mẫu nầy là vợ ông chết 3 năm sau đó vì mắc bịnh và ông cũng phải từ chức vì  sức khỏe do phong thổ khí hậu của VN.

Ý định phát triển Saigon đã được phát biểu trong phiên họp ngày 18-9-1879 của Hội Đồng Thành phố Saigon như sau : « Saigon đóng một vai trò quan trọng không phải chỉ về phương diện nếp sống của dân chúng mà còn trên bình diện cả thuộc địa và tổ quốc. Saigon là thủ đô của quốc gia vì ở đây có chính quyền trung ương, các cơ quan chỉ huy hải lục quân, tập trung các cơ sở cung cấp dịch vụ, có tòa án, không những tòa án cho Nam Kỳ mà cho cả Cao Miên, Ai Lao. Saigon là hải cảng duy nhất mà mọi loại tàu chiến và tàu buôn đều có thể ra vào, sẽ là nơi tập trung tất cả những chuyển vận hàng hóa và ngoại thương» (Nguyễn Văn Trung. Lục Châu học, bản đánh máy)

Trước khi người Pháp đến, địa hình Saigon gồm một khu đất cao ở phía Bắc chạy dài từ lũy thành Saigon đến Mã Ngụy (Ngả Sáu bây giờ) là nơi cư ngụ của giới phú hộ, còn dân chúng sống chen chúc ở vùng đất thấp dọc theo các con kinh và rạch Bến Nghé ở phía Nam.

 Pháp cho đào đất ở vùng địa thế cao đem lấp các vùng đầm lầy, đất trũng  và chỉ trong hai năm, địa thế Saigon đã thay đổi hẳn, các đường đất hẹp gồ ghề ở phía Bắc được thay thế bằng các con đường bằng phẳng và khu đất thấp gần sông, sau khi được tháo nước và lấp đất đã trở thành những con đường rộng, thẳng tấp (đường Charner / Nguyễn Huệ; đường Bonard /Lê Lợi,  Boulevard de la Somme / Hàm Nghi).

Chỉ trong 3 thập niên, Pháp đã hoàn thành các dinh thự, công thự, thiết lập khu  vực cư trú và cai trị cho người Pháp ở Thành phố Trắng (Cité blanche) mà con đường Catinat và khách sạn Continental là trục chính. Số công thự và nhà cửa cho người Pháp gia tăng lũy tiến : 40 nhà năm 1862, 108 nhà năm 1864, 200 nhà năm 1865 và 427 nhà năm 1866. (Devillers, tr. 212).

1.2.1 Trong công cuộc thiết lập hạ tầng cơ sở, kiến trúc, Pháp đã du nhập kỹ thuật thiết kế đô thị và nghệ thuật Tây Phương, kể cả việc nhập cảng vật liệu và đưa các nhà trang trí từ Pháp sang giúp. Một vài thí dụ.

Dinh Toàn Quyền (dinh Norodom, dinh Độc Lập) xây cất trong 5 năm, hoàn thành năm 1873, có mặt tiền dài 80m, mái mansard theo kiểu tân baroque; Nhà Hát Tây (trụ sở Quốc Hội thời VNCH), dinh Xã Tây (Tòa Đô Chính) theo phong cách Đệ tam Cộng Hòa Pháp, giống như Tòa Thị chính Paris; dinh Thống Đốc Nam Kỳ (dinh Gia Long) xây xong năm 1864 phỏng theo kiến trúc của Bảo Tàng Viện hội họa Munich; Tòa Án, Bưu Điện, theo kiểu Phục Hưng;  nhà thờ Đức Bà (khánh thành năm 1880, với kinh phí 2,5 triệu quan, chuyên chở vật liệu từ Pháp sang), nhà thờ Tân Định theo kiểu romanesque với vòng cung trên cửa sổ; nhà thờ Huyện Sĩ, nhà thờ Cha Tam theo kiểu Gothique với các cửa có dạng cung gãy.

1.2.2  Ngoài các dinh thự, công thự  tân kỳ, kiên cố, và nhà cửa đường phố được xây cất  theo kế hoạch, người Pháp đã khai hóa đô thị Saigon với việc trồng cây xanh ven theo  vĩa hè.

Kể từ năm 1873, các đường phố Saigon được làm thêm vĩa hè cho người đi bộ và cây xanh được trồng dọc theo lề đường. Tại khu Thành phố Trắng, dọc theo các đường Bonard, Charner, Catinat phần lớn là cây me, cây sao, tổng cộng 22 500 cây các loại trên đường và các công viên khu nầy (Franchini. 1992. p.35) được trồng cách nhau 5m. Trên các con đường khác, ngoài cây me còn có cây bàng, cây phượng. Sau vài chục năm, cây cối ven đường mọc um tùm, ẩm thấp nên có đề nghị phải chặt bớt và gây ra sự tranh luận. Trong biên bản một phiên họp tháng 6 năm 1912, một hội viên của Hội Đồng thành phố Saigon  đã phát biểu : :

«…Tôi không biết các ông có thấy những tấm hình chụp từ nóc nhà thờ Đức Bà hay không, cảnh đập vào mắt là một khu rừng thực thụ vì người ta chỉ thấy toàn là cây cối. Thành phố Saigon đang sống trong một khu rừng, vừa ẩm ướt, vừa không có ánh mặt trời rọi xuống đường sá. Có thể nói là một số con đường không bao giờ khô ráo trong suốt tám tháng liền trong năm, người ta ngửi thấy một thứ không khí của rừng già, vốn chắc chắn sẽ làm sinh sôi đủ mọi thứ mầm mống dịch bịnh truyền nhiểm. Điều nầy hiển nhiên là trái ngược hoàn toàn với vệ sinh …» Kết quả là Hội Đồng đồng ý cho chặt bớt, và khoảng cách trồng cây từ đó là 10 m, chớ không phải là 5 m như trước.  (300 năm TP Saigon, chương 3).

Song song với việc đô thị hóa thành phố Saigon, chánh quyền thuộc địa cũng đô thị hóa các tỉnh, thiết lập các cơ sở cần thiết cho bộ máy hành chánh. Đa số kế hoạch kiến trúc gần như giống nhau tại 21 tỉnh : dinh tham biện (tỉnh trưởng) là tòa nhà to nhất trong tỉnh nằm trên con đường lớn nhất thường quay mặt ra bờ sông, chung quanh là Tòa Bố (Tòa Hành Chánh), Tòa Án, Khám Lớn, Đồn Binh, Kho Bạc, Trường Học, Nhà Thương.

1.2.3  Khai hóa là để khai thác kinh tế và muốn khai thác kinh tế, Pháp cần thiết lập nhanh chóng hệ thống chuyển vận hàng hóa đường thủy và đường bộ.

Về đường thủy, các kinh rạch được vét sâu hơn, đất sông đem lên đấp làm bờ. Thương cảng Saigon hoạt động ngay từ năm 1860.

Để dễ dàng cho tàu bè  ra vào sông Saigon, hải đăng  Cap St-Jacques cao 8m xây  trên một vùng đất cao 139m, có tầm nhìn 28 dậm khánh thành năm 1862. Năm 1864, công binh xưởng Ba-Xon được mở trên bờ thương cảng để sửa chửa tàu bè và đóng các tàu loại nhỏ.

Về đường bộ, các đường phố trong nội thành Saigon được phát triển theo một kế họach rõ ràng : đường chính rộng 40m, đường cấp 2 rộng 20m, có vĩa hè rộng 2m và mỗi bên có một hàng cây; đường cấp 1 có vĩa hè  4m  và mỗi bên có hai hàng cây. Các bến sông cũng có các con đường chính rộng 40m. Các đường quốc lộ nối liền Saigon với các tỉnh và giữa các tỉnh, các cầu sắt và béton cốt sắt, và các đường xe lửa cũng được cấp tốc thiết lập như đường xe lửa Saigon-MỹTho dài 70km (1881-1885), đường Saigon-Nha Trang  dài 409 km (1906-1913). Ngày 2-10-1936, đường Xuyên Việt Saigon-Hanoi dài 1730 km  được khánh thành.

Từ 1900 đến 1935, Pháp đã sử dụng 145 triệu quan để lập đường xe lửa và 45 triệu quan để mở mang đường sá (Nguyễn Thế Anh, tr. 179).Để khai thác tiềm năng nông nghiệp và chuyên chở nông sản, Pháp cũng sớm lo phát triển hệ thống đường thủy nối liền Saigon đi miền Tây.

Chỉ trong 10 năm (1880-1890), Pháp đã cho đào được 2 triệu m3 đất kinh rạch, gia tăng thêm 170 000 mẫu đất canh tác (trung bình cứ đào 12 m3 đất thì được một mẫu ruộng canh tác). Ngoài những con kinh nhỏ được nới rộng, vét sâu hơn để nối liền với các rạch và sông lớn, phải kể đến những  con kinh lớn nhỏ mới đào, tạo thành hệ thống chuyển vận  huyết mạch trong đời sống xã hội và kinh tế cho các tỉnh vùng Tiền Giang-Hậu Giang.

Kinh Xà No : là công trình thủy lợi sớm nhất và lớn nhất ở Nam Kỳ với kinh phí 3,6 triệu quan thực hiện hơn 2 năm (1901-1903) gia tăng thêm 30 000 mẫu đất canh tác ở vùng Cần Thơ. Lễ khánh thành do Toàn quyền Đông Dương chủ tọa có đoàn ca vũ nhạc từ Saigon xuống.

Kinh Rạch Giá-Hà Tiên dài hơn 80km chạy dọc theo bờ biển nồi liền với các kinh phụ như kinh Tri Tôn (31km), kinh Ba Thê (40km), kinh Tam Ngàn để rút nước úng thủy và gia tăng diện tích khai thác đến 200 000 mẫu

Hệ thống kinh giữa sông Tiền và sông Hậu được đào trong vòng 7 năm (1904-1911) như kinh Lấp Vò, Mân Thít, kinh Cổ Chiên, kinh Ba Xuyên- Thạnh Lợi.

Hệ thống kinh vùng MỹTho, Tân An, Đồng Tháp Mười tổng cộng dài 80km được thực hiện trong những điều kiện cực kỳ khó khăn trong vùng hoang vu, phải tiếp liệu lương thực, nước uống cho phu đào kinh.

Tuy người dân quê nhọc nhằn cực khổ trong công cuộc đào kinh khẩn hoang, nhưng kết quả đã khiến miền Tây có thêm đất cày, phát triển kinh tế.

Một người nghiên cứu Cộng Sản, vốn thâm thù thực dân, cũng đã công nhận :

«Tính đến năm 1936, Pháp đã đào được 1360 km kinh chính, 2500 km kinh phụ với kinh phí lên đến 58 triệu đồng. Công bằng mà nói, với hệ thống kinh đào được thực hiện trong khoảng 80 năm ở Nam Kỳ, người Pháp đã làm thay đổi hẳn diện mạo nông nghiệp ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Diện tích đất canh tác được mở rộng không ngừng, đồng nghĩa với sản lượng lúa mỗi ngày một tăng, hình thành nên thị trường hàng hóa nông nghiệp. Giao thông vận tải cũng phát huy hiệu quả qua hệ thống đường thủy. Đó là những tiền đề quan trọng giúp cho việc phát triển sản xuất đời sống và bảo đảm an ninh lương thực của cả nước ởmột vựa lúa lớn nhất nước » (Nguyễn Thanh Lợi.)

Trong vòng nửa thế kỷ (1880-1937), diện tích trống lúa tăng lên 420% (1880 : 522 000 mẫu; 1937 : 2, 2 M mẫu), số lúa xuất cảng tăng lên 545% (1880 : 284.000 tấn; 1937 : 1,5M tấn), số dân tăng 260% (1880 :1,7M dân, 1937 : 4,5 M)

(Nguyễn Thế Anh, tr. 181).

Nói tóm lại, nếu chánh sách của chế độ thực dân Pháp là khai thác kinh tế và bóc lột dân Việt Nam, đặc biệt sắt máu ở Nam Kỳ, trong gần một thế kỷ cai trị, nếu phải kể cái di sản của Pháp đáng được ghi nhớ, chính là công trình khai hóa kỹ thuật, thiết lập các hạ tầng cơ sở, các công trình thủy vận, và các công trình kiến trúc mà hơn nửa thế kỷ sau khi người Pháp ra đi, các công trình nầy vẫn còn hữu dụng.

1. 3  Chánh sách đồng hóa

Song song với công cuộc khai hóa vật chất, thực dân Pháp cũng gấp rút khai hóa tinh thần người Việt để  khiến họ quên đi gốc nguồn, đào tạo lớp người thừa hành và nhân công cần thiết cho guồng máy hành chánh và khai thác kinh tế. Trong giai đoạn 20 năm đầu, thời kỳ Soái phủ với các đô đốc cai trị (1859-1879), Pháp đã áp dụng lúc ban đầu chế độ liên hiệp để lấy lòng giới sĩ phu và dân chúng, nhưng Pháp đã gặp phải sự chống đối mãnh liệt, nhiều cuộc nổi dậy võ trang, dân chúng hoặc không tuân theo mệnh lệnh, hoặc lánh xa khiến người Pháp phải thay đổi chính sách trực trị cứng rắn từ năm 1880, bắt đầu từ thời Le Myre de Vilers, viên thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ.

1. 3.1- Mở trường Pháp Việt

Ngay sau khi chiếm xong Gia Định, năm 1861, Pháp đã mở trường thông ngôn Collège annamite – français d’Adran để dạy cho người Việt học tiếng Pháp và người Pháp học tiếng Việt. Kỳ thi Hương năm 1861 bị bãi bỏ, kỳ thi năm 1864 được tổ chức tại huyện Vĩnh Định, tỉnh An Giang (Cần Thơ bây giờ) là kỳ thi chót. Cùng năm 1861, tại Saigon, tờ Công báo của đoàn Viễn chinh Pháp (Bulletin officiel de l’Expédition de l’Indochine) viết bằng tiếng Pháp ra đời, tiếp theo là tờ Gia Định báo, tờ báo đầu tiên viết bằng tiếng quốc ngữ  xuất bản năm 1865.

Sau hòa ước Giáp Tuất (1874), chữ nho lần lượt bị bải bỏ ở trường học. Năm 1878, thống đốc Nam Kỳ Louis Lafont ban hành nghị định theo đó kể từ đầu năm 1882, tất cả các công văn và giao dịch với chánh quyền đều phải viết bằng mẫu tự La-Tinh, có nghĩa là chữ Pháp và chữ quốc ngữ trở thành ngôn ngữ chính thức của Nam Kỳ. Để chuẩn bị cho việc áp dụng chánh sách nầy, ngày 17-3-1879, Pháp thành lập Sở Giáo dục công cộng tại Saigon (Service de l’instruction publique) và đưa ra chương trình giáo dục Pháp -Việt ở bậc tiểu học gồm 6 năm theo đó 3 năm đầu học chữ nho, quốc ngữ và Pháp và 3 năm sau chỉ học chữ quốc ngữ và chữ Pháp.

Thực ra, Pháp còn giữ lại chữ quốc ngữ trong chương trình học chỉ là giai đoạn tạm thời tiến đến việc Pháp hóa toàn diện bởi lẽ chữ quốc ngữ cũng sử dụng mẫu tự La Tinh. Tuy nhiên, việc mở rộng dạy chữ quốc ngữ trong các trường học ở Nam Kỳ đã gặp trở ngại vì chánh quyền Pháp không đủ tiền để mở các trường học ở các làng xã (phần lớn mỗi tỉnh lỵ chỉ có một trường tiểu học và trường trung học đầu tiên ở Nam Kỳ là  Collège de  Mỹtho thành lập năm 1879).

Năm 1907, trong một phiên họp của Hội đồng quản hạt, một nghị viên người Việt đã phát biểu : « Ba phần tư làng ở Nam Kỳ không có một học trò nào khi tốt nghiệp trường làng mà biết đọc chữ quốc ngữ và biết làm bốn phép tính. Chữ nho thì đã bị bãi bỏ từ lâu, thầy đồ thì đã bỏ nghề dạy học vì cha mẹ không muốn gởi con đến học phải trả tiền. Nhưng điều đáng tiếc là các trường dạy chữ quốc ngữ thì rất thiếu ở các làng nên trẻ con Annam không được dạy dỗ gì cả, do đó trẻ con trở nên ngu dốt và mất dạy. Càng trầm trọng hơn, ngay cho những đứa trẻ đi học chữ quốc ngữ cũng rất mất dạy vì chúng chỉ được học chữ nghĩa mà không học được đạo lý bởi lẽ những kiến thức về đạo lý chỉ có trong sách chữ nho là những thứ mà người Pháp muốn xóa bỏ vì nó không phù hợp với văn hóa Pháp…(G. Taboulet, p.584 ).

Ngoài vấn đề ngân sách, việc phát triển các trường Pháp-Việt còn gặp một trở ngại tâm lý là những người nhà giàu sợ cho con đi học rồi bị Pháp đem về bổn quốc nên không cho con đi học hay tìm con nhà nghèo thay thế.

Nam Kỳ Địa Phận số ngày 22-7-1909 có đăng một mẫu tin như sau : « Tao dốt cũng đành vì hồi đó Tây chưa qua chưa có lớp nhà trường như bây giờ. Qua tới đời mầy, lúc đó Lang Sa đã lấy Nam Kỳ rồi, đây có lớp nhà trường, lại ép ai có con phải cho đi học, cơm áo nhà nước ban cấp, sách vở bút mực khỏi mua, khỏi tốn mà hồi đó tao sợ cho mầy đi học, họ bắt đem về Tây mất nòi cho nên tao để cho mày chịu dốt, cái đó thì lỗi tại tao. Nay bây giờ mầy có một con trai tuổi cũng trương rồi, vậy phải cho nó đi học đặng nó biết một hai chữ, có cái tờ cái khế, có nó coi khỏi mượn ai. » (Nguyễn Văn Trung. Lục Châu Học)

Ngoài ra, để đào tạo các cán bộ trung thành cho nền hành chánh thuộc địa, Pháp cũng đã cấp học bổng cho các học sinh ưu tú tốt nghiệp trường Chasseloup Laubat sang Pháp hay Alger du học, nhưng nhiều người cũng không hưởng ứng. Trong số những người trở về có con của Tổng Đốc Phương tốt nghiệp trường St- Cyr năm 1890 và Bùi Quang Chiêu đậu kỹ sư nông học ở Alger năm 1897.

Trong những điều kiện như vậy, chính sách đồng hóa ngôn ngữ và văn hóa của Pháp đã không thành công, mà hậu quả các trường học ở Nam Kỳ không phát triển.

Ngay tại Saigon, số học sinh trung học và tiểu học (kể cả học sinh Pháp và Tàu) vào năm 1883 chưa đến 3000 như ở : Collège Chasseloup-Laubat (Trường «Bổn Quốc» : 293), Collège d’Adran (151), École municipale (Trường «Sở Cọp», gần Sở Thú : 98)Institution Taberd (58),École de Bình Hòa (143), École de Chơlớn (135 học sinh Việt), École chinoise de Cholon(212 học sinh Tàu), các trường tiểu học ở vùng phụ cận (1828 nam sinh, 126 nữ sinh) (Địa dư chí TPHCM, tập 2, tr.708).

Năm 1904, trên toàn cỏi Nam Kỳ chỉ có 17 000 học sinh trường công và 9 500 học sinh trường đạo Thiên chúa. (Devillers, p.466).

 1. 3.2 – Khai hóa xã hội

Chỉ không đầy nửa thế kỷ, với sự tiếp cận văn hóa Pháp, diện mạo Saigon và các thành phố Nam Kỳ đã biến hóa thành một xã hội  Tây Phương.

a)  Giai cấp mới

Sự du nhập kỹ thuật và nhu cầu theo lối sống Tây Phương đã sớm phát triển những ngành nghề cũ và mới, tạo nên một giai cấp tư sản công nghệ gồm càc chủ hãng xưởng như nhà máy làm gạch, cưa cây, làm đường, xay lúa, nhà in… hay các công ty buôn bán lớn nhỏ. Khi thế giới  chiến tranh thứ nhất bùng nổ, vì người Pháp bận lo chiến tranh, giới tư sản nầy có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, tạo nên một giai cấp tư bản Việt Nam, có một nếp sống thị dân như người Pháp. Họ gởi con du học và những người trở về mang theo kiến thức và tư tưởng tự do Tây Phương. Nhiều nhà cách mạng chính trị hay canh tân quốc gia xuất phát từ giới nầy.

Cuộc khai khẩn đất hoang ở miền Tây và sự hợp tác giữa thực dân và điền chủ đã hình thành  một giai cấp mới ở nông thôn là giới đại điền chủ. Những giao dịch thương mại và giao tế xã hội với người Pháp, người Hoa và người Ấn đã đưa ánh sáng «văn minh» Tây phương về nông thôn.

Mặt khác, sự bần cùng hóa của nông dân  với sự bốc lột của giới điền chủ và nạn cường hào ác bá cùng với sự phát triển công kỹ nghệ ở thành phố đã thành hình sau thế chiến I một giai cấp công nhân trong đó sự tham gia của phụ nữ trong các sinh hoạt kinh tế và xã hội ở thành phố đã góp phần trong việc bình đẳng hóa nam nữ.

Ngoài ra, những chương trình canh tân của các nhà tây học yêu nước cấp tiến, như Gilbert Trần Chánh Chiếu chẳng hạn cũng góp phần trong việc thay đổi một số phong tục thí dụ như cách ăn mặc gọn gàng, cắt tóc ngắn theo người Tây phương, giảm bớt những nghi lễ rườm rà trong quan hôn tang chế, bải bỏ dị đoan mê tín, chống cờ bạc, hút nha phiến, để làm cho đời sống thích nghi hơn với môi trường sống mới với cái tốt và cái xấu của văn minh Tây Phương.

b) Giới đầu gà đít vịt (tête de poulet, cul de canard)

Philippe Franchini, con của Mathieu Franchini, chủ nhà hàng Continental, và một người mẹ Việt,con gái của đốc phủ Lê Văn Mầu là lãnh chúa của Cù Lao Năm Thôn ở Mỹtho  là điển hình cho giới đầu gà đít vịt. Hơn ai hết trong số người Pháp ở Việt Nam, ông là người biết tường tận ngọn rau cọng cỏ của quê mẹ ông và trong hơn 10 tác phẩm viết về lịch sử VN, đặc biệt trong Continental Saigon và Saigon 1925-1945, ông đã viết vế quê mẹ ông với  tấm lòng và suy nghĩ. Qua hai tác phẩm nầy, ông đã mô tả thân phận cô đơn và sự dằng co của một đứa con lai giữa hai văn hóa Pháp – Việt, của cha ông bị đồng hương dèm xiểm và ganh tị vì lấy phụ nữ Việt (les encongayés, les niaque nghĩa là nhà quê), hạnh phúc và bất hạnh của người Việt lấy Tây (Me Tây : nguyên văn), của gia đình ông ngoại của ông, một mặt bốc lột, bắt nạt dân quê, một mặt nịnh bợ thực dân để có danh có lợi nhưng trong lòng vẫn khinh dễ và chống đối thực dân. Lúc trẻ thơ, từ Saigon ông về nghỉ hè ở cù lao Năm Thôn, sống hồn nhiên với các trẻ VN cùng lứa tuổi  nghèo nàn, thất học, ông đã cảm thông cho cái thân phận của người Việt trong chế độ thực dân.  Ông viết :

«Sans savoir encore que les Vietnamiens appelaient les métis «dau ga dit vit», tête de poulet, cul de canard, je ressentis très tôt l’inégalité des conditions et l’isolement dans lequel me plongeait cette belle maison propre et ordonnée, alors que dehors tant d’enfants de mon âge vivaient dans la liberté de la poussière et de la boue» (Franchini, 1995. p. 21).

Bởi lẽ khách sạn của ông (ông thay cha ông quản lý khách sạn sau khi cha ông về Pháp, cho đến năm 1975) là nơi gặp mặt của dân «Thành phố Trắng», ông thấy rõ hết bề mặt và bề trái của chế độ thực dân, những sa đọa, những mưu chước tranh chấp và nhất là sự phân chia giai cấp giữa người Pháp với nhau.

« Một ông chủ hãng không ở cùng một khu phố với một hạ sĩ quan hay một công chức ngạch thấp …Sự phân chia giai cấp không phải chỉ do tiền của và ngạch trật, mà còn trầm trọng hơn khi sự có mặt càng lúc càng nhiều của các bà vợ từ Âu châu sang !! Năm 1930 tại Saigon có 12 000 người Âu trong khi hồi đầu thế kỷ chỉ có 4000»  (Franchini, 1992, p.43).

Tuy cái cộng đồng nầy chỉ  chiếm 1% dân số, nhưng Saigon sống dưới sự thống trị và ảnh hưởng của «Thành phố Trắng». Sự ngăn cách giữa người Việt và người Pháp thì càng rõ rệt hơn. Trong Thành phố Trắng chỉ có hai giới được lui tới, đó là giới làm tạp dịch mà họ gọi là bồi, bếp, tài xế, và một thiểu số nhà giàu, nhà quyền thế người Việt.  Nếu giới bồi bếp gần gũi với« monsieur patron et ba dam patronne» (nguyên văn) để làm các công việc tạp dịch, một số ít nhà giàu người Việt hoàn toàn ly cách với người Pháp dù ở chung trong khu phố. Họ biết thân phận họ, không bao giờ dám bước chân đến Continental, dù  vợ của chủ nhân là một người Việt, và Cercle sportif , dù không có bảng ngăn cấm, họ vẫn biết là câu lạc bộ chỉ dành cho các quan cai trị người da trắng.

Với người phụ nữ VN, chuyên đi vào  thành phố da trắng là cấm kỵ. Nếu trên đường Catinat, thỉnh thoảng bắt gặp một người đàn ông Việt Nam vận âu phục chỉnh tề, hay một anh, một chị Chà Và với chemise và sarong, thì chuyện một người phụ nữ VN đi một mình trên đường Catinat là chuyện thật khó coi, không chấp nhận được. (Franchini, 1992, p. 49-51)

Tinh thần phân chia giai cấp xã hội mà người Pháp mang đến VN từ năm 1859 tiếp diễn trong suốt thời gian cai trị cho đến lúc họ ra đi năm 1954 là cái di sản độc hại đã hằn sâu thêm tinh thần phân chia giai cấp văn hóa của người Việt thừa hưởng của người Tàu.

Sự kỳ thị văn hóa chỉ là tiền đề cùa kỳ thị chũng tộc. Trong thời kỳ thuộc địa, xã hội Nam Kỳ có 3 hạng người : người Pháp, giới trung lưu người Việt và giới công nông.

Trong số người Pháp, sự phân cấp rõ ràng dựa vào cấp bậc và tài sản. Thế hệ con lai Pháp bị xem rẻ rúng. Philippe Franchini đã mô tả sự tủi nhục của ông khi ông bà ngoại ông từ Mỹtho lên Saigon đến trường đón ông trong chiếc xe Peugeot lộng lẫy có phủ rèm. Ngày hôm sau, các bạn hỏi ông :

– Qui c’était la vieille Annamite qui t’embrassait hier ? (Bà già Việt Nam nào hôm qua ôm hun mầy)

– C’était ma grand-mère (Bà ngoại tao)

– Ta grand-mère est Annamite? Mais alors, tu n’es pas Français (Bà ngoại mầy người Việt Nam? Như vậy mầy không phải là người Pháp)

– Si, je suis Français. Mon père est Français (Tao là người Pháp, cha tao là người Pháp)

-Non, tu n’es pas Français. Tu es un métis! (Không mầy không phải người Pháp, mầy là người lai)

Ils se mirent à rire. Je rougis…Désormais, je craignais que mes grands-parents ne viennent m’y chercher, je n’osais plus m’affirmer à moi-même que j’étais Français. (Chúng nó cười rộ lên. Tôi đỏ mặt. Từ nay, tôi sợ ông bà ngoại tôi  đến trường đón tôi, tôi không dám tự nhận với chính tôi, tôi là người Pháp) (Franchini, 1992p. 75)

Trong số người trung lưu Việt Nam phải kể giới trí thức như bác sĩ, luật sư, giáo sư, một số công chức ngạch trật cao cho chánh quyền.

Một số rất ít người vừa có học, vừa giàu được xem như giới thượng lưu Việt Nam, thỏa hiệp với chánh quyền thuộc địa trong chánh sách cai trị, trong đó phải kể thêm giới đại điền chủ. Vào năm 1939, tại Việt Nam có 6 800  đại điền chủ, trong đó  Nam Kỳ chiếm 6 300 người. (Nguyễn Thế Anh, tr. 250)

Về điểm nầy, tưởng cũng nên bàn về chánh sách chia để trị. GS Nguyễn Văn Trung, nguyên khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon, trong thiên nghiên cứu Lục Châu Học (chưa xuất bản, trên internet namkyluctinh.org) đâ có ý kiến là ông không tìm thấy một văn kiện nào về chánh sách chia để trị  của người Pháp mà các sách sử VN hay viện dẫn. Ông cho là sự phân chia Nam Trung Bắc chỉ vì yếu tố địa lý chính trị và văn hoá. Theo ông thì :

« Vì sự khác biệt giữa các miền về khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, đất đai…đưa đến việc coi Nam Kỳ là thuộc địa và Bắc, Trung là bảo hộ đã được nói đến nhiều, chúng tôi không cần nói thêm, nhưng về mặt văn hóa ít được nói đến, chúng tôi xin trích dẫn một vài nhận định của người Pháp về văn hóa, về con người ở hai miền Nam Bắc biện minh cho chính sách thuộc địa và bảo hộ. Ở miền Bắc, vùng đất cũ, làng xã khá chặt chẽ, con người đã gắn chặt với nền văn minh đó nên rất khó thay đổi được nền văn minh này bằng nền văn minh Pháp. Không thay đổi được thì phải tôn trọng nó và lợi dụng sự tôn trọng đó về mặt chánh trị. Đó là ý nghĩa của chánh sách bảo hộ. Trái lại, miền Nam là vùng đất mới, những người lưu dân đến cư ngụ không còn giữ được những truyền thống xưa cũ một cách chặt chẽ, họ lại là người tứ chiếng (Việt trà trộn với Miên-Tàu), do đó có thể tác động vào những cấu trúc văn hóa lỏng lẻo nầy để thay thế chúng bằng văn hóa Pháp. Đó là cơ sở của chánh sách đồng hóa và thuộc địa được áp dụng ở Nam Kỳ». (Nguyễn Văn Trung, Chương 9).

Nếu theo luận cứ của GS Trung, hiện tượng chia rẻ mà người Pháp đã áp dụng ở VN, đặc biệt ở Nam Kỳ không phải là một sản phẩm chính trị, mà là một đặc tính của dân tộc Pháp đã du nhập vào Việt Nam. Cứ nhìn sự phân chia giai cấp của người Pháp trên chính nước Pháp ngày nay thì rõ.

c)Thú vui, giải trí mới

– Về nghệ thuật : sự tiếp xúc với văn hóa Pháp đã phát hiện và phát triển một số nhu cầu mới về thú vui, giải trí. Ngành hát bội được cải biến thành cải lương dựa theo nhu cầu thẫm mỹ,  cách trình diễn, trang trí sân khấu mà các ban ca nhạc kịch của Pháp hàng năm đến trình diễn 6 tháng vào mùa hè tại nhà Hát Tây. Sinh hoạt ca kịch dần dần đến nông thôn với các tuồng tích xây dựng theo nội dung mới là một xúc tác mạnh mẽ trong sự biến đổi suy tư và tâm lý của dân quê.

– Những trò chơi thể thao mới được du nhập, ngoài tác động về sức khỏe và giải trí còn là một phương tiện để ru ngủ người dân xa lánh những phong trào chống đối người Pháp.

…Mời xem tiếp Phần 3

https://www.facebook.com/groups/124948084959931
 
PHỤ TRÁCH BIÊN TẬP
 
Sáng lập & Cố vấn:

TRẦN ĐĂNG HỒNG, PhD

Ban Biên tập :

VÕ THANH NGHI
vothanhnghiag@yahoo.com.vn
NGUYỄN THANH LIÊM
liem68dvb@gmail.com


Địa chỉ liên lạc: thnlscantho.3@gmail.com


Đặc San:
Đặc san XUÂN CANH DẦN (2010)
Đặc san XUÂN TÂN MÃO (2011)
Đặc san XUÂN NHÂM THÌN (2012)
Đặc san XUÂN QUÝ TỴ (2013)
Đặc san XUÂN GIÁP NGỌ (2014)
Đặc san XUÂN ẤT MÙI (2015)
Đặc san XUÂN BÍNH THÂN (2016)
Đặc san XUÂN ĐINH DẬU (2017)

Đặc san "Lưu Bút Ngày Xanh I (2010)
Đặc san Lưu Bút Ngày Xanh II (2011)
Đặc san Lưu Bút Ngày Xanh III
https://www.facebook.com/groups/124948084959931/
 
https://www.facebook.com/groups/124948084959931/
 
Today, there have been 228892 visitors (433893 hits) on this page!