31/7/2020
Chánh sách khai hóa và khai thác
của thực dân Pháp tại Nam Kỳ
Phần 1
Lâm Văn Bé
Khai hóa và khai thác là hai bản sắc của chế độ thuộc địa Pháp tại Việt Nam, đặc biệt tại Nam Kỳ là xứ trực trị. Tuy khai hóa và khai thác là hai ý niệm mà tác động có khác nhau, nhưng mục tiêu của thực dân Pháp chỉ là một, khai hóa văn minh để khai thác kinh tế.
Vào giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công kỹ nghệ ở Pháp đã bắt đầu phát triển cần tìm thuộc địa để khai thác nguyên liệu và xuất cảng hàng hóa. Năm 1820, Pháp chỉ có 65 máy hơi nước, năm 1870, Pháp có 27 000. Năm 1830, số vốn trong các cơ sở kỹ nghệ thương mại là 30 tỷ quan, hai mươi năm sau tăng lên 45 tỷ. Trước tình thế mới, hoàng đế nước Pháp không còn nắm quyền bá chủ như khi xưa mà từ đây phải bị chi phối bởi hai thế lực mới là giới tài phiệt và giới quân phiệt muốn bành trướng lãnh thỗ để làm giàu và làm lãnh chúa.
Năm 1852, Louis-Napoléon Bonaparte lên cầm quyền mở đẩu cho Đệ nhị Đế chế với đế hiệu Napoléon III là nhờ sự ủng hộ của Thiên chúa giáo với khẩu hiệu « Nước Pháp là con gái đầu lòng của Giáo Hội » và hoàng hậu Eugénie de Montijo, gốc người Tây ban Nha, là một tín đồ Thiên chúa giáo thuần thành, chủ trương bành trướng thế lực của giáo hội trên thế giới, kể cả châu Mỹ (Philippe Héduy, p.130).
Chánh sách cấm đạo và giết đạo Thiên Chúa của vua Tự Đức, nhất là sau khi giám mục Fray José Maria Diaz Sanjurjo, người cùng tỉnh Grenade với hoàng hậu bị chém đầu ở Nam Định (tháng 7, 1857) đã khơi dậy thêm mối kinh hoàng và thù hận của hoàng hậu, đòi hoàng đế phải trả thù cho các thánh tử đạo.
Cùng lúc đó (tháng 5, 1857), giám mục Pellerin cũng từ VN về gặp Napoléon và van nài hoàng đế hãy « nắm lấy trách nhiệm giải quyết vấn đề Kitô giáo tại VN, ông thống kê tên bao nhiêu giáo sĩ bị xử tử trong 25 năm qua, và cầu xin Hoàng đế sớm chấm dứt cái chuỗi cầu kinh tang tóc ấy…» (Nguyễn Xuân Thọ, tr. 28)
Không phải chỉ có giới Thiên chúa giáo làm áp lực mà giới quân nhân và tư bản cũng muốn đánh chiếm VN. Tháng 4 năm 1857, Napoléon III thành lập Ủy ban nghiên cứu về Nam Kỳ (Commission de la Cochinchine) do hầu tước Brenier đứng đầu, duyệt xét lại những quyền lợi lịch sử tại Nam Kỳ theo hòa ước Versailles đã ký kết năm 1787 giữa Louis XVI và Nguyễn Ánh (ký bởi giám mục Adran với sự hiện diện của hoàng tử Cảnh), nhưng chưa kịp thi hành .
Phe quân nhân (đô đốc Fourichon) và tư bản (Fleury) cho rằng « Nam kỳ trù phú có 5 sản phẩm quan trọng là bông vải, tơ lụa, đường, lúa, gỗ và một thị trường tiêu thụ lớn, đường sông đi lại dễ dàng », nên sau 7 phiên họp, Ủy Ban đề nghị Napoléon đánh chiếm ba thành phố Huế, Kẻ Chợ (tức Hà Nội) và Saigon. (Devillers, p.30; Nguyễn Xuân Thọ, tr. 28).
Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và hợp thức hóa chế độ thuộc địa tại phân nửa đất Nam Kỳ theo Hòa Uớc Nhâm Tuất (5-6-1862), Pháp đã đặt ngay những nền tảng của hai chánh sách khai hóa và khai thác. Hòa ước Giáp Tuất (15-3-1874) xác nhận chủ quyền của Pháp trên 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Nam Kỳ hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp.
Khai hóa và khai thác là hai chủ trương chi phối toàn thể chánh sách thực dân của Pháp tại Nam Kỳ. Chúng tôi sẽ nhận định trước tiên hai sắc thái quan trọng của chánh sách khai hóa về phương diện vật chất và văn hóa trước khi đề cập đến chánh sách khai thác kinh tế dưới hình thức sưu cao thuế nặng và các đồn điền cao su. Dĩ nhiên, trong khuôn khổ của một bài viết, chúng tôi xét qua một cách tổng quan.
Phần 1. Khai hóa
Khai hóa bắt nguồn từ ý niệm về sự ưu việt nhân chủng, tính thượng phong của dân chủ Tây phương và chủ nghĩa năng động của khoa học kỹ nghệ. Nói khác đi, mục tiêu của khai hóa là đem ánh sáng văn minh Tây Phương rọi sáng các nền văn minh bị xem là thấp kém.
Tuy lịch sử tiến hóa của nhân loại là lịch sử của các nền văn minh, nhưng phải chờ đến năm 1756 các triết gia nước Pháp mới khai sáng ý niệm về văn minh để đối nghịch với ý niệm man di, lạc hậu (barbarie). Theo các nhà tư tưởng nầy, một xã hội văn minh khác biệt với một xã hội sơ khai (société primitive) ở chỗ xã hội văn minh có những định chế (institutions), phát triển các đô thị và người dân có một trình độ giáo dục tương đối cao. (Huntington, p. 37). Cuộc đại cách mạng Pháp năm 1789 sau đó đề cao rõ hơn quan niệm nầy với những lý tưởng như tự do, bình đẳng và bác ái.Với chiêu bài khai hóa, đưa những lý tưởng cao đẹp nầy rọi sáng các quốc gia lạc hậu, Pháp đã bành trướng chế độ thực dân ở Phi Châu và Đông Dương.
1.1. Tiền đề của chánh sách khai hóa : Nam Kỳ lạc hậu
Khi Pháp vừa đặt chân đến Nam Kỳ, dưới mắt họ, Nam Kỳ là một xứ lạc hậu cần được khai hóa văn minh. Sau đây là vài nhận xét điển hình của một số tác giả vào thời điểm đó.
1.1.1- Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière, một sĩ quan trong đạo quân viễn chinh đánh chiếm thành Gia Định năm 1859, trong quyển hồi ký của ông tựa là Histoire de l’expédition de Cochinchine en 1861 (xuất bản bởi Librairie Hachette năm 1864) đã mô tả người Nam Kỳ lạc hậu mà chúng tôi phỏng dịch và trích dẫn một số đoạn như sau :
« Y phục của người đàn ông Nam Kỳ là áo dài cài nút ở bên hông, cái quần giống như quần của người Trung hoa, chân mang dép da đỏ. Đó là lối ăn mặc của người giàu có, quyền thế, còn hầu hết dân dả như nông dân và người chài lưới thì ở trần, chỉ mặc có một cái chăn (nguyên văn : can-chian) là một miếng vải rộng buộc bằng một sợi dây lưng. Trẻ con thì hoàn toàn trần truồng hay chỉ có tấm vải nhỏ hình trái tim, che bộ phận sinh dục, đầu cạo trọc chỉ chừa vài chỏm tóc. Y phục của phụ nữ thì cũng đại khái như đàn ông…Có nhiều phụ nữ Nam Kỳ cũng rất đẹp, mặt tròn, hai mắt như nhung nhưng xếc ra, da màu lợt, dáng dấp mong manh như người trẻ tuổi, nhưng đặc biệt người phụ nữ Nam Kỳ ham mê nữ trang còn hơn cả phụ nữ Tây phương…
Nếu phải nhận định tính khí của một dân tộc qua nơi ăn chốn ở thì phải nói rằng người Annam dồn hết nổ lực vào nơi họ ở sau khi chết. Mồ mã của họ thật là rắc rối…nhưng nhà họ ở lại rất thấp, dơ bẩn và buồn thảm. Mái nhà nghiêng xuống thật thấp do đó bên trong tối om ngay cả giữa ban ngày, nhưng cũng nhờ thế mà trong nhà rất mát mặc dù ngoài trời nóng bức…
Người Nam Kỳ chỉ biết ngồi bên cạnh những chiếc bàn gỗ thô sơ kê sát ngưỡng cửa, miệng nhai trầu. Họ ngồi trong dáng điệu trầm ngâm khiến chúng ta liên tưởng đến các giống thú nhơi cỏ (herbivore)…
Người Nam Kỳ rất ôn hòa, dễ sai bảo mặc dù sức phản kháng của họ cũng rất mạnh. Họ dễ cong lưng vâng lời nhưng cũng đầy khả năng vươn thẳng dậy, họ suy tư, rụt rè nhưng khá vui vẻ…
Họ ham vui chơi, khi làm có tiền là xài hết không cần kiệm như người Tàu. Họ không thích và không có khả năng về thương mại, do đó ruộng đất phì nhiêu của họ và việc buôn bán thì để mặc cho người ngoại quốc đến khai thác.
Đất Nam Kỳ miền Tây phì nhiêu, người dân có nhiều cơ hội để trở nên sở hữu chủ đất đai, dân làng cho nhau mượn trâu để làm ruộng, triều đình Huế cho vay tiền và ưu đãi nghề nông, do đó người Nam Kỳ có đời sống dễ dàng và không ai nghĩ đến việc di cư đi làm ăn nơi khác. Họ yêu mến đất đai của họ, đạo giáo và luật pháp cấm việc vượt biên, nên người ta không gặp một người Annam nào trên đất Tàu, Phi luật Tân, đảo Java hay Ấn Độ. Chính đó là những lý do trên khiến người dân Nam Kỳ không chịu đi làm cu li…Nhưng hình như mối ràng buộc của họ với đất đai chỉ là một mặt, bởi lẽ sau khi gặt hái xong, người nông dân trở thành người chèo ghe trên sông rạch, di chuyển khắp nơi trên đất Nam Kỳ. Trong một số trường hợp, vì sợ bắt làm nô lệ hay áp lực chính trị, họ có thể kéo nhau cả làng để ra đi, để lại một cảnh hoang tàn cho kẻ địch. Cách giải quyết như thế rất phù hợp với tính khí của người Nam Kỳ và không giống với bất cứ một dân tộc nào khác ở Á Châu.
Ở đất Nam Kỳ, con người trong đám đông không để lộ một cá tính nào cả, không ai tỏ ra hơn kẻ khác, không có sự ganh đua, có lẽ sự tôn thờ hoàng triều san bằng mọi con người. Người Nam Kỳ chiến đấu mạnh khi họ tin rằng họ có thể thắng, nhưng khi họ biết rằng họ thua thì họ chạy tán loạn như đàn chim vỡ tổ hay chui vào bụi rậm như con cọp, đối với họ không có gì nhục nhã. Cũng chính như vậy mà họ đã dùng lao chống lại súng đạn của quân ta trên đồng ruộng ở MỹTho. Ngoài cái can đảm của người Annam mà những người lãnh đạo can trường đã truyển dạy cho họ, ta còn biết được trong ấy có niềm tin dị đoan to lớn. Khi một đồng đội bị giết, họ liền mổ thây móc lấy trái tim còn thoi thóp mà chia nhau ăn ngấu nghiến rồi họ tiến lên bởi họ cho là họ có gan (nguyên văn : ils ont du gan). Truyền thống ăn gan khiến ta lầm tưởng đây là một dân tộc vô nhân đạo, nhưng ta có thể ngược lại khẳng định rằng người Nam Kỳ rất sợ cảnh máu rơi. Ở Âu Châu, giết người thường đi đôi với cướp bóc, trái lại bọn cướp ở Nam Kỳ chỉ lột sạch nạn nhân nhưng không giết, trước năm 1859, chưa chắc đã có đến ba vụ giết người trong một năm.
Người Nam Kỳ chấp nhận những khổ hình vào phút cuối với một thái độ trầm tĩnh đáng nể, không một cử chỉ nào, một lời nói nào cho thấy sự sợ hãi hay hèn nhát.
Người đàn bà Nam Kỳ được tự do hơn bất cứ nơi nào khác ở Á Châu. Người ta kể rằng ảnh hưởng của họ rất lớn ở làng xã. Nều có một người nông dân bị tù tội oan ức, người vợ sẵn sàng bồng con đến cổng quan mà khiếu nại, không ai cản được ý chí của bà ta. Ngoài đồng ruộng, trên sông nước, họ hát tay đôi với đàn ông, với giọng điệu kỳ diệu và tế nhị…
Người Nam Kỳ có thói ham mê cờ bạc cao độ. Những phu khuân vác do công binh ta mướn ở các công trường xây cất khi vừa lãnh lương được vài đồng tiền kẽm thì tụ lại đánh bạc, chơi chẳn lẻ. Trò chơi thật mau kết thúc, chỉ một thoáng là tất cả thua sạch, chỉ có một người thắng. Họ lại mượn lương của ngày hôm sau và tiếp tục cuộc chơi. Những người chuyên chở hàng hóa ở vùng sông MỹTho, khi ra đi trên những chiếc ghe đầy ắp hàng hóa, khi trở về thì thua hết vì cờ bạc chỉ còn cái chăn trên người. Những người Nam Kỳ ta thấy lúc nào cũng hối hả đem những gì họ vừa kiếm ra được để cờ bạc và hình như họ không tha thiết gì đến việc gìn giữ của cải để làm giàu và không ái ngại sống trong cảnh nghèo khó…» (Pallu, chapitre IX)
1.1.2– Henri Aurillac, một bác sĩ giải phẩu trong hải quân Pháp, đã mô tả cảnh vật và người Nam Kỳ như người Mọi, người Miên trong quyển hồi ký Cochinchine, Annamites, Moïs, Cambodgiens (xuất bản bởi Éditeur Challamel Aîné, năm 1870) như sau :
« Người Nam Kỳ là giống dân da vàng, đặc biệt có da màu đồng, lưỡng quyền nhô lên, mắt hí, mủi tẹt và môi dầy. Cả hai giới nam và nữ có cách ăn mặc không khác nhau lắm, đó là búi tóc và quần áo dơ bẩn che phủ một thân hình cũng nhớp nhúa, nhưng họ lại thích phủ trên lớp quấn áo dơ bẩn ấy những tấm lụa bóng láng mà họ rất tự hào…Thói quen ăn trầu khiến màu răng và nước trầu trông họ còn gớm ghiếc hơn và thói quen nầy tạo cho họ lắm bịnh về miệng và răng…
Dáng vóc nhỏ bé, càng nhỏ bé hơn với người phụ nữ, một người đã 20 tuổi mà trông như một thiếu niên 15. Sự kiện nầy được giải thích phải chăng bọn trẻ con Nam Kỳ hoàn toàn ăn không ngồi rồi, không cử động, không nhảy múa. Thú vui duy nhất của chúng là cờ bạc.
Người Nam Kỳ, tuy thông minh, nhưng lười biếng và ngạo mạn…
Nói chung, họ vui tính và vâng lời. Tuy bình thường họ không sùng đạo, không tha thiết với chuyện chính trị, nhưng khi bị khích động, họ bừng dậy và phấn đấu một cách mãnh liệt…
Tuy họ sinh sống bằng nghề nông, nhưng họ bị khai thác bởi người Tàu trước khi chúng ta đến hợp lực khai thác. Tuy người già trên 50 tuổi rất ít, nhưng tôi vẫn thấy có người sống lâu hơn. Người phụ nữ thường chết sớm hơn đàn ông vì họ phải chịu những cực khổ của sinh đẻ và phụ với chồng những công việc đồng áng và những công việc nặng nhọc giống như của người đàn ông…
Thức ăn của họ chỉ là gạo, nước uống là nước sông, kinh rạch và rượu, đó là lý do khiến cơ thể họ không phát triển và hay ốm đau. Khi chúng ta du nhập bánh mì, họ vẫn ăn ngấu nghiến, nhưng họ vẫn trở về với thức ăn cổ truyền của họ là cơm và nước mắm. Họ lại là giống dân thích ăn đường và chất ngọt…
Nếu người Nam Kỳ ăn uống không đầy đủ, chỗ ở của họ còn thô sơ hơn. Người nghèo có thể ngủ bất cứ ở đâu, trên chiếc chiếu hay trên mãnh ván ở giữa trời, do đó họ mặc cùng một thứ quần áo ngày đêm, và cũng vì vậy mà họ dơ bẩn, bị nhiều bịnh về da…
Hút thuốc lá liên miên là thói quen của người Nam Kỳ, cả đàn ông, đàn bà và trẻ con. Say rượu là chuyện thường tình. Nhiều người hút á phiện do người Tàu mang đến…
Tuy họ không thích đàn, nhưng họ thích hát và diễn kịch. Nhạc khí của người Việt rất ít, chỉ là chiếc trống hòa theo tiếng hát làm chát chúa tai nếu không kể thêm cây đàn violon Tàu 2 dây và cái ống sáo. Những nhạc sĩ của chúng ta đã đến trình diễn cho họ xem 10 năm rồi mà họ vẫn không bắt chước được một câu hát. Tôi nghĩ có lẽ vì họ thiếu cơ hội để khai thác năng khiếu nên chúng ta phải giúp họ phát triển đời sống và nghệ thuật…
Tôi sẽ thiếu sót khi chấm dứt nếu không kể đến những lối trừng phạt của người Nam Kỳ như roi, gậy, treo cổ, chém đầu thực là khủng khiếp. Tôi không thể nào miêu tả hết các cực hình nầy nhưng có điều là họ thích được treo cổ hơn bởi lẽ họ tin rằng khi chết mà cái đầu lìa khỏi cái xác thì linh hồn họ sẽ sống trong địa ngục…» (Aurillac. Chapitre Annamite, p. 35-54)
1.1.3- Trong một quyển hồi ký khác của nhà thiên nhiên học (naturaliste), Albert Morice (1848-1877) viết năm 1872 với tựa là Voyage en Cochinchine đã mô tả dân Nam Kỳ với một giọng điệu còn miệt thị hơn, xem dân Nam Kỳ như một sắc dân lạc hậu, rừng rú. Chúng tôi xin trích dẫn vài đoạn :
«… Những thú vui nho nhỏ của một nhà thiên nhiên học như tôi không làm cản trở tôi nghiên cứu một đề tài khác quan trọng hơn mặc dù ghê tởm hơn (répugnant), đó là nghiên cứu về người Nam Kỳ (nguyên văn là : Annamites, chúng tôi hiểu là qua hồi ký, có đôi chỗ tác giả muốn tổng quát hóa là người Việt Nam qua những quan sát trên người Nam Kỳ).
Cái cảm giác đầu tiên của một người ngoại quốc khi nhìn thấy dân tộc nầy là một sự ghê tởm tột độ. Cái gương mặt phẳng phiu, chẳng có chút nào phản ứng, cái mủi lẹp và cặp môi vảnh lên, đỏ choét và đen xì vì ăn trầu, chẳng giống gì hết cái quan niệm thẩm mỹ của chúng ta.
Đó là một giống dân thấp bé, chúng ta cao sức vóc hơn họ rất nhiều, hoặc vì bẩm sinh của họ, hoặc vì họ thiếu vệ sinh. Về bản tánh, có thể so sánh với bọn nô lệ, dốt nát, lười biếng, sợ sệt…Một cách tổng quát, dân tộc nầy vô cảm với nghệ thuật, âm nhạc của họ thì buồn chán không hợp chút nào với chúng ta và chắc chắn họ chẳng hiểu gì âm nhạc của chúng ta, họ không biết khoa điêu khắc, thơ phú thì nghèo nàn và không biết nhảy múa. Kiến thức văn chương chỉ gom tụ lại vài chữ nho, còn khoa học thì tốt hơn đừng nói đến. Cách ăn uống của họ không vệ sinh, họ uống nước dơ bẩn ở hồ ao, cùng lắm là lọc với chút phèn, thức ăn thì chỉ có cá ít nhiều tươi, nước mắm, dưa leo và một vài trái cây lặt vặt…Quần áo của họ thì chỉ rời cơ thể họ khi rách nát, họ mặc không đủ ấm nên những buổi sáng tháng 12, tháng giêng họ rung lập cập, do đó trẻ con chết nhiều vì sưng phổi và sưng ruột. Nhà cửa của họ thì hoặc là các chòi lá, hoặc cất theo lối nhà sàn trên bùn đất, nhưng nói chung bẩn thỉu…Cách đi của họ rất lạ kỳ, đàn ông lẫn đàn bà đều đi chàng hãng và cách họ ngồi chồm hổm trông thật mệt nhọc đối với chúng ta…
Người Annam chỉ có hai thứ tuổi : hoặc là trẻ con, hoặc là người già, tuổi trẻ của họ kéo rất dài nhưng tuổi già của họ thật ngắn. Người già làm dáng với chiếc áo dài và khăn đóng, đi đứng ra vẻ bệ vệ với cây dù và chiếc quạt, miệng luôn ngậm điếu thuốc xệ ở môi dưới và họ chỉ nhả ra khi họ khạc xuống đất hay thay thuốc xỉa. Họ tiếp tục uống rượu nhiều hơn khi trẻ…
Nếu người đàn ông Nam Kỳ không mấy đẹp, còn người đàn bà Nam Kỳ thì sao ? Trừ một thiểu số vợ của các nhà tai mắt thì duyên dáng với nước da trắng trẻo, còn đa số phụ nữ Nam Kỳ xấu xí, da mặt sần sùi, môi vảnh lên và đỏ vì nước trầu. Người phụ nữ Việt Nam có tướng đi rất xấu, hai tay đánh đàng xa và thân mình quay trái quay phải luôn. Tính họ lông bông, rất thich cờ bạc và đôi khi ăn cắp…Một số người Annam được chánh phủ ta tuyển vào quân đội được gọi là lính tập (nguyên văn : linhtaps). Họ mặc quân phục như lính của ta, và do sĩ quan ta điều khiển. Thật là khôi hài khi trông thấy mấy anh lính tập nhỏ bé nầy vừa hãnh diện vừa khó khăn trong bộ quân phục, nhất là đôi giày là một thứ cực hình cho họ và họ tháo bỏ đôi giày ngay khi có thể được. Họ có nhiều tự ái nên không muốn cho người Tây Phương rầy họ, nhưng nói chung họ là những người lính ngoan ngoản, nhưng điều khó khăn nhất là bắt họ phải cắt bộ tóc um tùm của họ.
Một loại lính Việt thứ hai là mả tà (Matas) là lính phục vụ cho các quan hành chánh của chúng ta. Họ mặc quần coton trắng, đi chân không, áo xanh có viền vàng, nịt một sợi dây nịt to bản trong đó họ đựng thuốc hút và trầu, đầu đội một cái nón nhỏ che búi tóc. Họ được trang bị súng mousquetons, đứng gác trước các công sở, và một số tín cẩn được cho làm cai, đội, và thơ lại (les tholaï). Những hạ sĩ quan nầy nịnh chủ đến độ cởi giày cho chủ…» (Morice. Chapitre 3,4)
Với những nhận định về trình độ lạc hậu, rừng rú của người Nam Kỳ/Việt Nam qua những mô tả như trên, thực dân Pháp đã áp dụng chánh sách khai hóa trên dải đất mà họ hoàn toàn làm chủ từ năm 1859 đến 1945. Chúng tôi thiết nghĩ, mặc dù là một thứ chiêu bài, và với tinh thần trịch thượng lẫn chủ tâm trục lợi, thực dân Pháp cũng thành khẩn trong việc «giáo hóa» dân Việt Nam mà họ xem là thiếu văn minh như Jules Ferry đã tuyên bố năm 1885 là nhiệm vụ của các dân tộc ưu việt là giúp đỡ các dân tộc nhược tiểu thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu : « le devoir des races supérieures est d’aider les races inférieures à sortir de leur barbarie » (Devillers, tr. 476) |