This paper which aims at providing an assessment of the natural resources of the southern part of Viet Nam, namely the South Eastern region and the Mekong delta, is structured into 14 sections. Following the introduction about the geographical setting, section 2 deals with the main natural ecosystems. Section 3 discusses about the quaternary geology of the area as well as soil genesis. Section 4 presents the various climatic factors which influence land use and crops while in section 5 the soil taxonomy of various soil groups and their acreage is presented. In section 6, the main characteristics of hydrology and hydrography such as flood, tides, rivers and canals are assessed. Natural vegetation is dealt in section 7 while in section 8, the land use with different kinds of crops (wet rice farming, field crops, fruit crops..) is analysed. Animal husbandry is dealt briefly in section 9. Section 10 discusses about the development potential of problem soils such as soil acidity, soil salinity as well as the methods of soil management and water management to deal with these problems. Fisheries resources and aquaculture sector are presented in section 11. The presentation of different types of industry prevailing in the region is in section 12. Section 13 deals with the cultural aspects in the Mekong delta, including oral literature, folk song, religion, customs and habits. Finally, in the concluding section, the author emphasizes about the need of implementing off-the-land activities to relieve pressure on cultivated land and increasing efficiency on the cultivated area in the context of sustainability.
1. Tổng quan
Bài tham luận này bàn về các sắc thái của miền Đông Nam phần (MĐNP) và miền Tây Nam phần (dưới đây gọi là đồng bằng sông Cửu Long, viết tắt là ĐBCL).
1.1.Miền Đông Nam phần gồm các tỉnh như sau, từ Tây sang Đông : Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước (túc Bình Long và Phước Long củ ), Đồng Nai (tức Biên Hoà và Long Khánh củ), Bà Rịa-Vũng Tàu (tức Phước Tuy củ ) và một thành phố lớn : Saigon.
Bảng 1. Diện tích các tỉnh MĐNP:
Tỉnh
|
Diện tích (km2)
|
Dân số (người)
|
Đồng Nai
|
5907
|
2 838 600
|
Binh Dương
|
2694
|
1 887 000
|
Binh Phước
|
6872
|
932 000
|
Bà Rịa Vũng Tàu
|
1987
|
1 073 000
|
Tây Ninh
|
4033
|
1 104 000
|
Thành phố Ho Chi Minh
|
2000
|
8 triệu
|
Diện tích tự nhiên của MĐNP là 2 342 400 ha. MĐNP gồm những vùng đất cao, dễ thoát nước, có cao độ trung bình 50-150 mét và gồm các đất phù sa cổ sinh phần lớn là đất xám bạc màu (Bình Dương, Tây Ninh, Long Thành, Biên Hoà ) và đất đỏ có nhiều ở Gia Kiệm, Xuân Lộc, Bình Phước.
Trong MĐNP, còn có vài hòn núi nhô lên như :
-núi Bà Đen (936 mét) ở Tây Ninh, nằm cách thị xã Tây Ninh khoảng 10 km về phía ĐB.
-núi Châu Thới gần Biên Hoà.
-núi Chứa Chan (dân địa phương gọi là núi Gia Ray ) cao 859 mét gần Xuân Lộc .
- núi Bà Rá ở Phước Long (736m).
MĐNP, ngoài người Kinh, còn nhiều sắc tộc thiểu số như người Mạ, Cho-ro, Rag Lai, Sê-tiêng, Châu-ro, Mơ-rông, Tày, Thái, Dao. Ba tộc sau này chỉ mới di dân tự do từ miền Bắc những năm gần đây.
1.2. Miền đồng bằng Cửu Long (ĐBCL)
Diện tích tự nhiên của ĐBCL là 3 956 700 ha nghĩa là rộng gấp 3 lần đồng bằng sông Hồng, nếu tính riêng đất trồng trọt bằng 37% của cả nước.
ĐBCL là vựa lúa lớn của cả nước vì năm 1998 đã sản xuất được trên 15 triệu tấn gạo. Khác với đất cao ở MĐNP, ĐBCL trái lại gồm toàn đất thấp, khó thoát nước, nên kinh rạch ngổn ngang. Cao độ trung bình 4-10 mét và gồm những loại đất phù sa, đất phèn, đất mặn ven biển.
Trong ĐBCL còn có vài hòn núi nhô lên như vùng Thất Sơn tỉnh An Giang, có bảy ngọn núi thấp, cao vài trăm mét : Núi Cấm, núi Tượng, núi Cô Tô v.v. Ngoài người Kinh, tại ĐBCL, còn có người Khơ-me (Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang) và người Chăm vùng Châu Đốc .
Qúa trình trầm tích trong các môi trường khác nhau như nước mặn, nước lợ và nước ngọt tạo nên 3 cấu trúc hình thể là vùng duyên hải, vùng đồng trủng phèn chua và vùng đồng lụt phù sa. Từ đó, có thể chi tiết hoá thêm về các sinh hệ như sau :
a-Vùng đất phù sa nước ngọt ven sông Tiền, sông Hậu và giữa hai sông này: 1.2000. 000 ha, chiếm gần 30% diện tích
b-Vùng thềm phù sa cổ dọc biên giới Việt-Cambodia: 3%
c-Vùng đồng bằng ven biển có
.vùng ven biển cao:700 000 ha, chiếm 18% diện tích ( phù sa nhiễm mặn ven biển Đông như Trà Vinh, Càng Long, Mỏ Cày, Bình Đại, Chợ Gạo, Bến Lức, Cần Giuộc )
.vùng ven biển thấp, còn gọi vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau, có 648 000 ha chiếm 17%
.vùng trũng ven biển tức vùng rừng U Minh có gần 200 000ha chiếm 5%
.vùng ven biển ngập triều có 216 000 ha chiếm 5.4%
d-Vùng trũng có :
.vùng trũng Đồng Tháp Mười có 414 000 ha chiếm 10.4% diện tích
.vùng trũng Hà Tiên có 217 500 ha chiếm 3.5% diện tích
e- Vùng núi và đồi thấp tức vùng Thất sơn có 417 000 ha
Như vậy, ta thấy ngay hai đơn vị khác nhau về mặt đất đai, khí hậu và từ đó sử dụng đất đai cũng khác nhau : nếu MĐNP trồng cà phê, cây điều, cao su thì tại ĐBCL, cây lúa là cây trồng trọt chính, ngoài ra có vài nơi chuyên canh cây ăn trái tạo nên cái thường gọi là văn minh miệt vườn
2. Lịch sử hình thành châu thổ Cửu long
Dưới đồng bằng miền Nam hiện nay với các trầm tích phù sa còn non trẻ tuổi Holocen thì xưa kia, vào thời đại địa chất Trung Sinh (mésozoique) có một khối móng đá gốc (socle originel). Vào đệ tứ kỷ, phía đông của đồng bằng này được nâng lên cùng lúc với các rặng núi nam Trung bộ. Trong khi đó, phía Tây đồng bằng lại bị lún sâu xuống, tạo ra một vịnh biển có nhiều đảo nhỏ. Như vậy, châu thổ Cửu Long trước kia nằm dưới một biển cạn và chỉ mới dần dần lồi ra khỏi mặt biển chừng 6 000 năm nay mà thôi, nghĩa là thời kỳ Holocen muộn (thời kỳ Holocen khởi đầu 10 000 năm trước công nguyên).
Cùng lúc có sự nâng lên của MĐNP thì macma bazan phun lên, -tuổi Pleistocen muộn-Holocen sớm-, bao phủ các phù sa cổ vừa được nâng lên.
Lớp phù sa cổ sinh cũng như các phún xuất bazan bao phủ lớp này rất rộng ở Miền Đông Nam Phần, lan đến phía Campuchia (Kompongcham, Kratié) .
Vai trò của biển đánh dấu lịch sử hình thành châu thổ Cửu Long :
-vào thời điểm băng giá lần cuối trong kỷ Đệ Tứ, tức thời Wurm, nhiều vùng Bắc Mỹ, Bắc Âu Châu, Bắc Trung Hoa bị băng hà nên thể tích nước bị co rút lại, do đó mực nước biển bị hạ xuống (biển lùi hoặc biển rút). Lúc đó, mực nước biển hạ xuống đến 120 mét, khiến nhiều đảo hiện nay như Sumatra, Java, đảo Hải Nam đều dính vào đất liền cùng với miền Châu thổ Cửu Long, tạo thành một thềm đất liên tục mà danh từ địa lí trong các sách gọi là Sunda platform (plate-forme de la Sonde). Hiện nay, còn dấu vết dòng sông cổ sông Mekong dưới đáy biển. Dọc biển Đông, nhiều giải đất giồng biển xưa là chứng tích của từng giai đoạn rút lui của biển khỏi đồng bằng ngày nay. Thực vậy, dưới lớp đất mặt các giồng này, có nhiều di tích các sinh vật biển xưa như vỏ sò, ốc, hàu.
Sau thời kỳ băng giá lần cuối, thời kỳ tan băng hiện nay khởi đầu : nhiệt độ tăng dần trong Bắc Bán Cầu làm nước các khối băng hà tan ra và làm mực nước biển dâng lên ở mức hiện nay ( biển tiến ) do đó, thềm Sunda dần dần bị ngập nuớc biển.
Nếu biển xưa kia có ảnh hưởng đến sự hình thành châu thổ thì hiện nay, biển vẫn đóng vai trò trong tính chất và hình thành đất đai ở đồng bằng này, qua sự xâm nhập nước mặn vào kinh rạch, qua thủy triều với nước lên, nước xuống mỗi ngày. Nhiều vùng duyên hải có nhiễm mặn vào mùa khô và có mức thủy cấp bị mặn quanh năm.
Sự trồi sụt âm thầm của nền đá gốc cũng là nguyên nhân tác động đến mức độ bồi tích : nơi nào khối móng đá nâng lên thì mức độ bồi tích ít đi nhưng lại trãi rộng ra như bán đảo Cà Mau. Những nơi có móng đá gốc sụt xuống thì tạo ra nhiều đầm trũng rộng lớn với thực vật ngổn ngang (như trũng tứ giác Long Xuyên, trũng Đồng Tháp, trũng U Minh) đó là những đầm mặn cổ, dấu vết của các vùng biển xưa sau quá trình biển rút. Các đầm lầy biển này chứa một lượng lưu huỳnh khá lớn và chính là tiền thân các vùng đất phèn rộng lớn ở châu thổ Cửu Long ngày nay. Với phù sa tràn về, thực vật các vùng trũng bị vùi lấp và lâu ngày, tạo ra nhiều đất than bùn do xác thực vật bị nén chặt dưới phù sa lớp lớp bồi tích. Và với thời gian, lượng phù sa khổng lồ sông Mekong chở đến hàng năm đã bồi đắp dần dần các biển cạn xưa kia.
Như vậy, theo lịch sử địa chất, ta có :
- móng đá gốc
-một phần phía Đông được nâng lên, cùng lần với phún xuất bazan
-một phần phía Tây bị lún xuống, tạo ra một vịnh biển
-phù sa Cửu Long bồi đắp trên vịnh biển, cùng với sự rút lui của mực nước biển để tạo thành châu thổ Cửu Long ngày nay
3. Khí hậu
Miền Nam khác với miền Bắc là không có sự phân mùa theo nhiệt độ vì nhiệt độ trung bình vừa khá cao (trên 250), vừa ít biến thiên; nhiệt độ luôn luôn thích hợp cho cây trồng. Miền Nam chịu ảnh hưởng gió mùa tây nam : mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và nhiệt độ tháng nóng nhất là 29độ (tháng 4) và mát nhất là 25 độ (tháng 12) .Tuy nhiên cũng có hai miền khí hậu chính khác nhau tùy theo MĐNP hay ĐBCL.
3.1 miền Đông Nam phần (MĐNP).
Khí hậu MĐNP vì tiếp giáp với cao nguyên Nam Trung phần nên mưa nhiều hơn và sương mù gần núi nhiều hơn. Saigon có vũ lượng trung bình cả năm khoảng 1 900 mm
3.2 đồng bằng Cửu Long (ĐBCL) .
Mùa mưa miền Châu thổ Cửu Long thường khởi sự đầu hè, đúng như bài thơ Nguyên Sa :
Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong toả đường về
Và đêm mưa xin cứ dài vô tận
Tuy mùa mưa xảy ra vào mùa hè nhưng lượng nước mưa rất thay đổi theo năm ( có năm lũ lụt, có năm không), theo vùng :
- vùng Rạch Giá Cà Mâu thì mùa mưa bắt đầu sớm hơn, vào cuối tháng 4, còn những nơi khác, lần lượt từ đầu đến giữa tháng 5. Thực vậy, Cà Mau vì gần xích đạo và chịu ảnh hưởng gió mậu dịch (trade wind) bắc xích đạo nên khí hậu vừa mưa nhiều hơn (2 400 mm, thay vì 2 000mm ở các nơi khác) với số ngày mưa cũng lớn hơn (160 ngày thay vì 140 ngày).
-vùng Gò Công và lân cận mưa thường bắt đầu cuối tháng 5, đầu tháng 6. Ngay trong mùa mưa cũng có số ngày không mưa (7-8 ngày) gọi là tiểu hạn. Khác với miền Trung, lũ lụt ở đây không phải do mưa tại chỗ mà là do mưa thượng nguồn từ trên Lào hay Kampuchea đổ xuống; do đó có khi ĐBCL đang bị hạn, ít mưa mà lại bị lũ !
Nhái theo truyện Kiều, lũ kia 'cũng có ba bảy đường, có khi biến, có khi thường' : có khi không nhất thiết lũ lớn mà bị thiệt hại nhiều, lũ nhỏ bị thiệt hại ít; mức độ thiệt hại còn phụ thuộc vào thời gian xuất hiện lũ và thời gian kéo dài của mực nước đỉnh lũ. Lũ xuất hiện sớm hơn bình thường sẽ gây thiệt hại cho lúa hè thu. Lũ có thể lớn (mực nước đỉnh tại Tân Châu, điểm đầu nguồn trên sông Tiền trên 4.5 mét), nhưng lũ xảy ra đúng lúc thì không gây nhiều thiệt hại .
Nhưng cũng có những năm mùa nắng rất ít mưa nên thiếu nước ngọt cho sinh hoạt; lúc đó lưu lượng dòng chảy sông ngòi ít hơn nên không đủ để đẩy chất mặn đi xa; ngược lại, nước mặn có cơ hội xâm nhập vào sâu hơn qua các kinh mương, gây ảnh hưởng đến mùa màng. Mặn có dịp tiến sâu hơn vào dịp triều cường. Cùng với mặn, chua phèn cũng xuất hiện ở các vùng ven Đồng Tháp như Thủ Thừa, vùng giáp Bến Lức, Đức Hoà và khi mưa xuống sẽ lan xuống hạ nguồn.
Hơn nữa, hạn hán kéo theo hậu qủa là dễ cháy rừng, đặc biệt khu rừng U Minh, nếu nước trong kinh rạch khô cạn thì dễ làm mồi cho rừng tràm dễ cháy .
Tóm lại là hạn hán kéo theo một chuỗi hậu qủa khác trong môi trường.
4. Đất đai.
4.1 đất đai MĐNP.
MĐNP nhìn chung khá bằng phẳng, có 3 dạng địa hình : địa hình núi thấp (Núi Bà Đen, núi Chứa Chan), địa hình đồi lượn sóng, có cao độ từ 20-150 mét và địa hình đồng bằng. Các loại đất MĐNP có thể liệt kê như sau :
4.1.1 đất xám trên phù sa cổ sinh.
Đất xám ở MĐNP chiếm 1 156 000 ha , phân bố ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai. Đây là những loại đất nghèo chất hữu cơ, mức thủy cấp thường sâu, khả năng giữ nước kém, nghèo dinh dưỡng. Ngoài hoa màu phụ như đậu phụng, lúa rẩy, còn gặp các cây ăn trái như mảng cầu, mít, cây kỷ nghệ như điều ..Các loại đất này được phân loại trong nhóm đất Acrisols (FAO).
4.1.2 đất đỏ.
Đất nâu đỏ trên đá bazan thường gặp ở tỉnh Đồng Nai (Xuân Lộc, Gia Kiệm), Bình Phước (Lộc Ninh, Phú Riềng). Diện tích đất đỏ quảng 547 000 ha. Đất đỏ phì nhiêu hơn đất xám, sức giữ nước tốt hơn. Trên đất đỏ, ta thường gặp cây cao su, cây cafe, cây điều và cây tiêu. Phân loại trong nhóm Ferralsols .
4.1.3 đất đen trên đá bazan.
Loại đất này rất phì nhiêu vì có khả năng trao đổi cation và độ no bazơ rất cao (nhóm Luvisols). Đặc biệt có nơi trên miệng núi lửa còn có đất đá bọt (Andosols).
4.1.4 đất phù sa.
Đất phù sa gặp ven các dòng sông như sông La Ngà, sông Đồng Nai, sông Saigon.
4.1.5 đất gley.
Đây là các đất nằm trong các thung lũng rộng, dùng trồng thuốc lá, trồng rau cải, có thủy cấp cạn, không xa lớp đất mặt (Gleysols).
4.2 đất đai ĐBCL.
Với diện tích tự nhiên của miền đồng bằng sông Cửu Long là gần 4 triệu ha, các nhóm đất chính được phân phối như sau :
Bảng 2. Các nhóm đất chính DBSCL
1đất cát 43 318 ha 1.10%
2 đất mặn 744 547 ha 19.1%
3 đất phèn 1 600 263 ha 41.1%
31đất phèn tiềm tàng 421 867 ha (10.7%)
32 đất phèn hoạt động 1 178 396 ha (30.1%)
4 đất phù sa 1 184 857 ha 30.4%
5 đất lầy và than bùn 24 027 ha 0.6%
6 đất xám 134 656 ha 3.5%
7 đất đỏ vàng 2 420 ha 0.06%
8 đất xói mòn 8 787 ha 0.2%
Xem vậy, các nhóm đất phù sa, đất phèn và đất mặn đã chiếm hơn 90% diện tích đất ĐBSCL; các nhóm đất khác chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ .
4.2.1 đất cát giồng
Các loại đất cát giồng được thành lập do sóng biển và gió dồn cát lại mà thành. Những giải cát giồng là dấu tích chứng tỏ đồng bằng tiến ra biển. Có thể gặp nhiều giồng dưới dạng những hình vòng cung song song với bờ biển, rải rác ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh (huyện Cầu Ngang, Trà Cú ..) Các giồng có địa hình cao hơn so với vùng phù sa chung quanh. Càng xa biển, các giồng càng thấp dần do sự bào mòn tạo nên, có nơi giồng bị lấp duới lớp phù sa, được gọi là giồng chìm như ở Gò Công. Càng gần biển thì tuổi các giồng cát càng trẻ hơn. Đất giồng thường cao ráo nên là nơi có tập trung nhiều làng mạc, và vì dễ thoát nước nên nông dân trồng nhiều loại cây có rễ sâu như nhãn, điều .
Đặc điểm của đất cát giồng miền châu thổ Cửu Long là có màu vàng, khác với các loại cát trắng như ở miền Trung.
4.2.2 đất mặn
Đồng bằng Cửu Long xưa kia là biển nhưng lâu dần có phù sa bồi dắp; tuy nhiên tiếp giáp với nước mặn qua biển và qua kinh rạch nên nước biển có khả năng xâm nhập rất sâu vào đất liền. Đất mặn gặp các vùng duyên hải như ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Tri tỉnh Bến Tre, ở huyện Cầu Ngang, Trà Cú tỉnh Trà Vinh và dĩ nhiên ở các huyện tỉnh Cà Mau. .
Đất mặn được bao phủ bởi rừng ngập mặn, như đước, mắm, sú vẹt, chà là ..bị ngập nước triều quanh năm. Vì nhóm đất này bị ngập triều quanh năm nên hướng sử dụng vẫn là phải bảo vệ rừng vì rừng ngập mặn vừa chắn sóng, vừa làm tường ngăn giữ nguồn phù sa bồi đắp hàng năm .
Cũng có những vùng có đất phèn tiềm tàng bị nhiễm mặn; thường có cao độ 0.5-0.8 mét, không bị ngập triều mà chỉ bị mặn trong mùa khô. Ruộng đất các vùng này chỉ làm một vụ lúa vào mùa mưa và phải làm đúng mùa vụ và vì ảnh hưởng của nưóc mặn vào mùa nắng nên ruộng đồng bỏ hoang. Do đó, muốn cải thiện các đất này, cần xây dựng hệ thống thủy nông tốt, dẫn nước ngọt về để trồng hoa màu vào mùa nắng.
4.2.3 đất phèn
Nhóm đất phèn chiếm nhiều diện tích nhất và có thể gặp :
-vùng Đồng Tháp Mười
-vùng Tứ giác Long Xuyên; đất phèn được hình thành trên các trầm tích ở các cửa sông, vào giai đoạn biển lùi thời kỳ Holocene muộn, với các sản phẩm trầm tích đầm lầy nước lợ, giàu hữu cơ và có chứa một lượng lưu huỳnh khá lớn: đó là các điều kiện để thành hình đất phèn. Căn cứ vào tầng sinh phèn, tầng phèn và độ sâu xuất hiện của những tầng này trong phẫu diện đất, người ta phân biệt :
a/ đất phèn tiềm tàng gặp ở các địa hình thấp trũng những vùng ngập nước sâu nhất và lâu nhất như ở Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ , Vũng Liêm, Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long và vùng trũng Đồng Tháp Mười . Đất thường bị ngập nước và dưới lớp đất mặt, có một tầng đất nhiều xác bã và ống rễ thực vật; đó là tầng đất chứa vật liệu sinh phèn, như pyrit tức sulfit sắt (FeS2).
Và vì tầng sinh phèn xuất hiện không sâu nên nếu mực thủy cấp trong đất bị hạ thấp hơn so với điều kiện tự nhiên thì tầng đất sinh phèn sẽ bị oxyhoá, gây độc cho cây trồng.
b/ đất phèn hoạt động . Các dất phèn hoạt động được hình thành trên trầm tích phù sa nước lợ và sông biển hỗn hợp, bưng lầy. Đất được tạo ra từ đất phèn tiềm tàng bị thoát thủy hoặc ở địa hình hơi cao, có điều kiện để phèn tiềm tàng bị oxyhoá mạnh mẽ tạo ra tầng phèn nằm rất cạn và khá dày : đất bị oxyhoá nên tầng pyrit chuyển dần thành tầng jarosite màu vàng rơm (sét cứt chuột), có pH dưới 3.5. Khi phèn bốc lên đất mặt mà màu trắng, nông dân gọi là phèn lạnh; khi nổi váng đỏ vì có chất sắt nhiều thì họ gọi là phèn nóng. Đất phèn hoạt động:
. ở trên địa hình cao hơn đất phèn tiềm tàng
. thoát thủy nhiều hơn
. đất chua hơn (pH thấp hơn)
Hàm lượng phèn biến đổi theo thời gian và không gian; thực vậy, nước phèn di chuyển từ vùng cao đến vùng thấp trũng, kéo phèn xuống tích tụ ở các rốn phèn tức những lòng chảo, hứng phèn của các vùng cao xung quanh. Trong mùa mưa, nước lôi phèn xuống các rốn phèn, liên tiếp dồn phèn xuống làm cho dung dịch phèn ngày càng đậm đặc nên các vùng này phải bỏ hoang. Hướng sử dụng các rốn phèn là kinh doanh lâm nghiệp (tràm) vừa cung cấp than củi, ong mật và nên tránh trồng các loại hoa màu trên các vùng rốn phèn. Ngoài các rốn phèn, có thể lên líp trồng khóm và những loại cây có khả năng chịu phèn
4.2.4 đất phù sa
Đất được hình thành dọc theo các dòng sông lớn như sông Tiền, sông Hậu. Phù sa ven sông thường ở địa hình cao hơn là các phù sa ở xa sông; độ cao của các bờ sông phụ thuộc vào lượng phù sa và chế độ thủy văn của sông. Ta có thể phân biệt :
.đất phù sa địa hình cao, ở dọc hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu. Đất này được hình thành trên trầm tích sông, có phì nhiêu cao, rất tốt cho sản xuất nông nghiệp: cây ăn trái, lúa 2-3 vụ hoặc lúa+màu
.đất phù sa địa hình thấp, xa sông Tiền và sông Hậu. Đất được phát triển trên trầm tích phù sa sông biển hỗn hợp, trong đó phù sa sông chiếm ưu thế. Nằm rải rác ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Các đất này có cao độ từ 0,5 đến 1,2m do đó mực thủy cấp cũng dao động: có chỗ mức thủy cấp sâu tạo ra sự thiếu nước cho canh tác và có chỗ trũng việc tiêu nước cũng khó khăn. Vùng đất này còn chịu ảnh hưởng bởi thủy triều và lũ nên nhiều nơi nước tự chảy vào ruộng hầu như quanh năm, do đó có giá trị lớn về mặt nông nghiệp cho các cây ăn trái, rau cải, hoa màu, lúa v.v.
Các loại đất phù sa mới được hình thành cách đây chỉ khoảng 6 000 năm nay và không có lớp laterit hoặc sạn sỏi trong phẫu diện đất.
4.2.5 đất than bùn
Đất than bùn hình thành trên trầm tích đầm nội địa hoặc các lòng sông cổ, do qúa trình tích lũy chất liệu hữu cơ từ lâu. Gặp ở U Minh thượng (tỉnh Kiên Giang) và U minh hạ (tỉnh Cà Mau). Nằm ở các vị trí địa hình thấp trũng nên phần lớn là đất than bùn phèn tiềm tàng.
Hạn chế chính các đất này là lớp hữu cơ có khả năng sụt lún, sau khi thoát thủy. Ngoài ra, vì đa số nằm lộ thiên nên dễ cháy vào mùa khô. Hiện nay, nhiều rừng tràm trên đất than bùn bị đốt cháy nên lớp hữu cơ cũng bị mất đi và do đó diện tích đất hữu cơ càng hẹp dần .
4.2.6 đất xám
Đất xám trên phù sa cổ (địa hình cao) thường gặp tại các vùng ranh với biên giới Campuchia như Mộc Hoá, Hồng Ngự, Đức Huệ. Trong đất loại này, có lớp laterit dưới sâu Tuổi tuyệt đối dùng phương pháp C14 quãng 40 000 năm.
Còn tiếp Phần 2