15/7/2020
Miền Nam
GS Thái Công Tụng
Phần 2
5. Thủy lợi
5.1 miền Đông Nam phần (MĐNP)
MĐNP có các dòng sông sau đây chảy qua: sông Đồng Nai, sông Bé, sông Saigon.
Sông Đồng Nai là con sông chảy trong lãnh thổ Việt Nam, chỉ dài 635 km, phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên Dalat và sau khi chảy qua cao nguyên Lâm Đồng, thì chảy vào MĐNP. Sông Đồng Nai, với lưu lượng 485m3 /giây (Trị An) có nhiều phụ lưu như sông La Ngà, sông Bé, sông Saigon. Sông Đồng Nai, chảy qua thành phố Biên Hoà, gặp sông Saigon tại Nhà Bè nên có câu ca dao:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Trên sông Đồng Nai có đập thủy điện Da Nhim và đập Trị An. Sông Đồng Nai chảy ra biển Đông bằng nhiều cửa, trong đó lớn nhất là cửa Soài Rạp.
.Sông La Ngà bắt nguồn từ cao nguyên có độ cao 1 600m và là sông nhánh bên trái của sông Đồng Nai .Trên sông La Ngà có hai công trình thủy điện Hàm Thuận và Đa Mi, cách nhau 10km. Ngoài việc cấp điện, công trình còn cấp nước cho vài huyện tỉnh Bình Thuận (Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận) và tăng nước cho thủy điện Trị An vào mùa khô .
.Sông Bé, là nhánh sông bên phải của sông Đồng Nai, phát nguyên từ cao nguyên M'nong, chảy qua tỉnh Bình Phước (Bình Long, Phước Long), chiều dài khoảng 360 km và đổ vào sông Đồng Nai ở phía dưới thác Trị An. Diện tích lưu vực : 7 170 km2, có lưu lượng trung bình 264 m3 /giây (Phước Hoà) .
.Sông Saigon, lưu lượng nhỏ hơn hai sông kia, với 85m3 /giây (Thủ Dầu một), chảy qua Bình Dương và đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè.Trên thượng lưu sông Saigon ở Tây Ninh có hồ nhân tạo Dầu Tiếng, rộng 27 000ha, có sức chứa 1.5 tỷ m3 có khả năng tưới cho cây trồng, cho nước sinh hoạt, nước công nghiệp. Về nước ngầm, vùng đất xám (Tân Uyên, Bến Cát) có nguồn nước dồi dào, độ sâu khai thác 30-70 mét, lưu lượng 15-20 lít/giây, chất lượng nước tốt. Các nơi có địa hình thấp trũng có nước cao áp .Vùng đất đỏ nguồn nước ngầm trữ lượng không lớn, độ sâu khai thác 50-100 m, lưu lượng 3-5 lít /giây, chỉ sử dụng phục vụ sinh hoạt và tưới diện tích nhỏ.
5.2 đồng bằng Cửu Long (ĐBCL)
5.2.1. nhận xét tổng quát
Nói đến ĐBCL là nói ngay đến nước: thực vậy, kinh rạch ngổn ngang, bàu, ao, sông sâu sóng cả. Tuy nhiều nước như vậy nhưng không phải muốn sử dụng là được : tại vùng Đồng Tháp Mười thì nước phèn, tại vùng duyên hải lại gặp nước mặn, nhất là vào mùa khô. Đó là chưa kể nước sinh hoạt sạch thì vẫn thiếu. Nước lũ sông Cửu Long 40 ngàn m3/ giây, gấp đôi lũ sông Hồng nhưng nhờ có Biển Hồ nên chỉ dâng lên từ từ để làm ngập trên cả triệu mẫu đất trong vùng Châu thổ. Lưu lượng con sông ấy mùa nước kiệt chỉ có 2 000 m3/giây từ tháng 3 đến tháng 5 trong khi nhu cầu nước cho sinh hoạt châu thổ trong khoảng thời gian này là 4 tới 5 ngàn m3 /giây và nhu cầu ấy dự trù tăng gấp đôi vào giữa thế kỷ 21. Vào mùa mưa, nhờ lưu lượng nước khá lớn nên có thể đẩy lùi nước mặn từ dòng sông chính và kênh lớn ra biển còn vào mùa khô nước triều biển Đông xâm nhập sâu vào nội địa nên nhiều khu vực bị nhiễm mặn, không trồng lúa được.
Nhiều ca dao phản ánh kinh rạch chằng chịt với ghe thuyền buôn bán :
-Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,
Xuống bưng sợ đĩa lên rừng sợ ma
-Ghe anh đỏ mũi xanh lường,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em
-Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh
-Bước xuống bắc Mỹ Tho, thấy sóng xô nước đẩy
Bước lên bờ Rạch Miễu, thấy nước chảy vòng quanh
Anh biết chắc nơi đây là đất Châu thành
Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành có em
-Anh đi ghe gạo Gò Công
Vô vàm Bao Ngược, gió giông đứt buồm
Buồm là tấm đệm đan bằng lác (Scirpus grossus) hoặc bàng (Lepironia orticulata). Cây lác hoặc bàng có nhiều vùng đất phèn, miệt Thủ Thừa lên tới Mộc Hoá. Những dân nghèo đến đó cắt đem về bán cho các vựa ở Chợ Đệm và Chợ Đệm có tên như vậy vì đó là nơi sản xuất đệm dùng để phơi lúa, làm buồm chạy ghe.
5.2.2 Các sông chính
. Sông Vàm Cỏ .
Sông Vàm Cỏ có hai nhánh :
-Vàm Cỏ Đông, còn gọi là sông Bến Lức, dài 300 km, phát nguyên từ bên Campuchia, chảy xuống tỉnh Tây Ninh (Trảng Bàng, Gò Dàu), Long An ( khu vực nhà máy đường Hiệp Hoà), rồi đổ ra cửa Soài Rạp
-Vàm Cỏ Tây cũng phát nguyên từ bên Campuchia chảy qua Mộc Hoá đến Thủ Thừa rồi chảy qua cầu Tân An, gần châu thành Tân An. Cả hai sông này gặp nhau ở gần thị trấn Vàm Cỏ thuộc tỉnh Long An, rồi nhập vào sông Nhà Bè, đổ ra cửa Soài Rạp (cửa Vàm láng)
- Sông Cửu Long và các kinh rạch
Sông Mekong dài 4 200km, phát nguyên từ bên Tây Tạng, khi chảy đến tỉnh Kompong Cham của Cao Miên thì dòng sông không đủ chuyển tải lưu lượng mùa lũ nên nhiều vùng của hai nước Miên-Việt bị ngập lụt, kéo dài 2-4 tháng. Vào khoảng tháng 7, nước tràn bờ, lưu lượng dòng chính giảm. Đến Nam Vang, dòng chảy ấy hoà nhập với một nhánh lớn là sông Tonlesap nối với Biển Hồ. Hồ này có sức chứa trong mùa lũ đến 80 tỷ m3 nước. Vào mùa khô thì nước trong hồ lại đổ ra dòng chính cho đến hết tháng 12. Ngay điểm hợp lưu với dòng Tonlesap trên đất Cao miên, sông Mekong chia làm 2 nhánh:
-Sông Tiền, chảy qua các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, đổ ra biển bằng 4 sông và 6 cửa là :
*sông Mỹ Tho, chảy ngang qua Mỹ Tho và ra biển bởi Cửa Tiểu và Cửa Đại
*sông Ba lai, chảy qua phía bắc tỉnh Bến Tre, ra biển bởi cửa Ba Lai
*sông Hàm Luông, chảy qua phía nam tỉnh Bến Tre và ra cửa Hàm Luông .
Cửa Hàm Luông sông sâu sóng cả
Em thương anh nhiều mà chả dám theo
Thương anh đâu quản hiểm nghèo
Ngặt vì một nỗi, anh có con mèo theo sau
*sông Cổ Chiên chảy giữa 2 tỉnh Bến Tre và Trà Vinh ra biển bởi 2 cửa là Cổ Chiên và Cung Hầu
-Sông Hậu, chảy qua các thị trấn như Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Ôn (Trà Vinh) và đổ ra biển qua 3 cửa sông là cửa Định An (về phía tỉnh Trà Vinh), Bassac (Ba thắc) và cửa Trần Đề (phía tỉnh Soc Trăng)
Như vậy, cả hai dòng sông chảy ra biển bằng chín cửa sông, dân gian ví như 9 con rồng nên mới có tên là Cửu Long.
Nối liền giữa 2 sông Tiền và sông Hậu có nhiều kênh đào như kinh Vĩnh An (ở Châu Đốc), sông Vàm Nao (ở An Giang), kênh Lấp Vò (Vĩnh Long), sông Măng Thít (Trà Vinh).
Còn riêng trong đồng bằng cũng còn có nhiều kinh đào khác quan trọng đóng góp vào sự lưu thông hàng hoá cũng như trị thủy. Vài ví dụ:
*kinh Vĩnh Tế (nối Hà Tiên với Châu Đốc)
*kinh Rạch Giá-Long Xuyên
*kinh Phụng Hiệp (Cà Mâu-Cần Thơ)
*kinh Cà Mâu-Bạc Liêu
*kênh Xà no (Vị Thanh-Cần Thơ)
Ngoài sông Cửu Long, trong đồng bằng còn có vài dòng sông khác như :
*sông Gành Hào, Đầm Dơi, Bồ Đề (thuộc Cà Mau) và sông Mỹ Thanh chảy ra biển Đông.
*sông Cái Bé và Cái Lớn chảy ra vịnh Rạch Giá.
*sông Trèm Trẹm, sông Ông Đốc chảy ra vịnh Thái Lan.
Ngoài nước mưa, sông Mekong là nguồn duy nhất cung cấp nước tưới cho đồng bằng. Lưu lượng trung bình của sông Cửu Long là 10 700 m3/giây; vào mùa lụt cao, có khi lên đến 53 000m3/giây.Vào mùa kiệt, vào tháng 3-4, lưu lượng chỉ còn 2 000 m3/giây.
Vào mùa mưa, khi lưu lượng nước trong sông chỉ mới vượt quá 25 000m3 /giây thì đã có 25% diện tích châu thổ bị ngập nước. Thời gian ngập lụt thường kéo dài từ tháng 7-8 đến tháng 11-12. Nồng độ phù sa sông Cửu Long là 0.250 kg /m3, nhưng thể tích hàng năm lên đến hàng trăm triệu tấn. Nước lũ chuyển vào Đồng Tháp Mười từ 2 phía: nước từ biên giới Cao Miên chiếm đến 77% khối lượng, nhưng chất lượng kém vì dòng sông Mekong, trước khi vào nước ta, phải chảy qua cánh đồng phèn và bị cây cỏ lọc hết phù sa còn nước lũ vùng tứ giác Long Xuyên là từ sông Hậu và vùng biên giới chuyển về có nhiều lượng phù sa làm giàu đất đai. Trong vòng 30 năm qua, đồng bằng này bị nhiều lũ lụt lớn (1961, 1966, 1984, 1991, 1994 ). Với người nông dân, lũ lụt là tai hoạ nhưng cũng là tài nguyên. Nhờ lũ lụt, sông Cửu Long kéo dài tuổi trẻ, ruộng đồng rửa sạch phèn, được thêm lượng phù sa màu mỡ và được mùa cá tôm quanh năm .
Tại những vùng trũng ít có khả năng tiêu thoát nước, tình trạng ngập úng kéo dài đến 6 tháng.
Vào mùa khô thì khi lưu lượng sông nhỏ hơn 6 000m3/ giây thì nước ngọt bắt đầu khan hiếm và khi dòng chảy sông đã yếu, nước biển theo thủy triều lấn sâu vào phía nội địa, các vùng ven biển bị nhiễm mặn không thể lấy nước cho trồng trọt được.
Chất lượng của nước:
Trong ĐBCL, có bốn loại nước khác nhau: nước ngọt, nước phèn, nước lợ và nước mặn.
Nước phèn là nước chứa nhiều sắt và nhôm, có nồng độ acid lớn nên không uống được.
Nước lợ (nước chẻ hai) là nước pha giữa nước ngọt và nước mặn.
Nước mặn là nước gần vùng cửa biển chứa nhiều clorua natri (ClNa).
Chỉ có nước ngọt là nước sử dụng được cho sinh hoạt.
6. Thảo mộc thiên nhiên.
6.1 miền Đông Nam phần.
MĐNP trước kia có nhiều rừng với nhiều sắc mộc như cây dầu, cây bằng lăng, cây sao, gỏ v.v. nhưng nay bị đốn phá nhiều để trồng hoa màu, do sức ép dân số.
6.2 đồng bằng Cửu Long.
Phải kể cây tràm (Melaleuca) vùng U Minh. Vào mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Cây tràm nhỏ và thấp hơn cây đước và thân cây thường vặn vẹo không thẳng đứng như cây đước. Những cây thân tương đối thẳng thì dùng làm cột nhà, còn trong xây cất nhà cửa, cây tràm dùng làm cọc chống lún rất bền chắc. Gỗ tràm dùng làm cột nhà mà không bị mọt mối phá hư. Hoa tràm có vị thơm và nhụy hoa ngọt nên loài ong thường đến hút nhụy làm mật. Rừng tràm là nơi ẩn náu nhiều loài chim, cá đồng chưa kể các động vật như trăn, rùa, khỉ, heo rừng. Rừng ngập mặn ven biển thì có cây đước (Rhizophora) phát triển rất nhanh tại các bãi bồi còn sình lầy. Cây đước làm cột nhà, cắm trụ đáy trên các sông và ngoài biển khơi. Gỗ đước còn dùng làm mái chèo. Ngọn, nhánh đước dùng làm củi và thân cây đước dùng để hầm than : có hàng trăm lò than đước ở huyện Năm Căn ( Cà Mau). Vỏ đước dùng để nhuộm chài lưới và là nguyên liệu chế tanin phục vụ cho ngành thuộc da. Cây bần (Sonneratia acida), cây dừa nước (Nipa fruticans) mọc theo bờ kinh rạch. Cỏ bàng (Leipironia) dùng làm đệm. Những vùng đất bồi ngập mặn có lác dùng để dệt chiếu.
Đồng Bến Tre nhiều bưng nhiều lác
Đường về Ba Vát, nặng chĩu sầu riêng
Anh ra đi ba bốn năm liền
Sao không ở lại kết bạn hiền với em
7. Sử dụng đất đai tại MĐNP và ĐBCL
7.1 miền Đông Nam phần
Trong các cây kỷ nghệ, có thể gặp cây cà phê, cây điều, cây cao su. Cây cà phê, thường trồng trên đất đỏ có giá trị xuất cảng rất lớn vì giá trị 1 tấn hạt caphê tương đương với 10-12 tấn gạo. Phần lớn là cà phê vối (robusta) trồng ở Xuân Lộc, Bình Long, Phước Long trên đất đỏ .
Cây điều, còn gọi là điều lộn hột (Anacardium occidentale), được trồng để lấy hạt vì nhân hạt là một thực phẩm thơm ngon có giá trị xuất cảng cao : giá hạt điều thô hiện nay quảng 1 000 USD /tấn và giá nhân hạt điều ăn liền 6 000USD/ tấn. Trung bình 5 tấn hạt điều thô chế biến được 1 tấn hạt điều ăn liền. Cần chọn giống tốt có năng xuất cao và nên tiến tới nhân giống vô tính để phổ biến các giống năng xuất cao.
Caosu có nhiều MĐNP vì trước đây, nhiều công ty cao su đã thiết lập các đồn điền. Riêng tại tỉnh Đồng Nai, diện tích caosu đã chiếm 50 000 ha
Tại MĐNP, có nhiều loại cây ăn trái như : chôm chôm (rambuttan), măng cụt (mangoustan), bưởi, mảng cầu dai, nhãn, sầu riêng (durian).
Về các cây hàng năm, ngoài lúa, còn có đậu phụng, mía, thuốc lá cũng như rau cải trồng quanh đô thị .
Đậu phụng thường trồng luân canh với lúa và là món ăn rất ưa thích được dùng dưới nhiều hình thức : nấu chín, rang, nấu xôi đậu phụng, làm bánh kẹo, ép dầu. Dầu đậu phụng dùng đóng hộp với cá hoặc làm bơ đậu phụng. Bánh dầu dùng làm thực phẩm gia súc. Thuốc lá cũng trồng luân canh với lúa; sau khi gặt lúa xong, vài nơi trồng cây thuốc lá nhưng chỉ trồng trên qui mô nhỏ.
7.2 đồng bằng Cửu Long.
Khi nói đến nông nghiệp miền châu thổ sông Cửu Long, là ta nghĩ ngay đến lúa, vì lúa là nông sản chính trên các chân ruộng ở đây: lúa mùa, lúa nổi, lúa trồng mùa khô v.v. Cũng có những tiểu vùng nhiều vườn cây ăn trái, làm nên cái ta thường gọi là 'văn minh miệt vườn' .
7.2.1 Lúa.
Miền ĐBCL là vựa lúa của Việt Nam và cũng có thể nói vựa lúa của thế giới vì chính từ ĐBCL mà gạo được sản xuất nhiều nhất ở Việt Nam để tiếp tế cho miền Trung, miền Bắc và Saigon và cũng để xuất cảng sang các xứ Á Châu (Phi luật Tân, Indonesia ), Phi Châu. Diện tích lúa cả năm là 3 760 000 ha, cho một sản lượng lúa là 15 318 000 tấn lúa, với năng xuất trung bình 4.07 tấn/ha.(thống kê 1998).
Lúa được bố trí tùy theo điều kiện đất đai, thủy lợi nên có thể có nhiều thời vụ như lúa mùa, lúa Đông Xuân, lúa Hè-Thu. Biện pháp canh tác lúa chủ yếu là sạ (gieo vãi), chứ không cấy như xưa, trong đó biện pháp sạ ướt (hạt giống được ngâm ủ cho nảy mầm, sau đó gieo trên đất dã được dánh bùn kỹ ) chiếm ưu thế.
a. Lúa mùa
Đây là lúa mùa mưa; vụ lúa này thường bắt đầu từ tháng 5 và thu hoạch tháng 10-11 cho đến tháng 1-2 năm sau. Tùy điều kiện thủy lợi, nông dân dùng giống lúa mùa sớm (thời gian sinh trưởng 140-150 ngày), lúa mùa chính vụ (180-200 ngày) và giống muộn (230-250 ngày). Những chổ ngập sâu thì cấy lúa muộn, chỗ ruộng ngập cạn, dưới 0.5 mét thì làm lúa mùa sớm. Diện tích lúa mùa là 635 600 ha với năng suất 2.98 tấn/ha, tập trung nhiều ở các tỉnh nhiều đất mặn như Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng
Hiện nay, nhờ kỷ thuật sạ khô và việc du nhập các giống mới có năng xuất cao, chịu phèn mạnh, tương đối cao cây và nổ lực làm thủy lợi nên nông dân trồng được 2 vụ lúa trong mùa mưa: lúa hè-thu rồi cấy vụ mùa địa phương (thu-đông) bằng giống lúa mùa sớm, năng xuất cao .
b. Lúa nổi
Lúa nổi cũng là lúa mùa, nhưng đặc trưng là nó chịu ngập nước rất sâu; các vùng Châu Đốc, Long Xuyên thường bị lụt sâu, nên nông dân phải sử dụng giống lúa nổi có thân cao; lúa nổi được sạ vào tháng 5 và cũng tùy mực nước rút sớm hay muộn mà nông dân gieo những giống lúa nổi thân cao ít hay thân cao nhiều. Sau vụ lúa nổi gặt vào tháng 12, nông dân tận dụng nước ẩm còn trong ruộng lúa để làm thêm hoa màu phụ. Tuy nhiên càng ngày, các điều kiện ngập sâu dần dà được khống chế nên nhiều vùng như Hồng Ngự, nông dân còn trồng được 2 vụ lúa :lúa Hè-Thu (tháng 4 đến tháng và lúa Đông-Xuân (tháng 12 đến tháng 3 năm sau) hoặc có chỗ làm 2 vụ lúa, thêm vụ đậu nành (Chợ Mới)
c. Lúa Hè-Thu
Lúa hè-thu là loại lúa mùa sớm, trồng ngay đầu mùa mưa với các giống mới, thấp cây, ngắn ngày để có thể thu hoạch được trước khi lũ sông Cửu Long đến; ở vùng đất mặn, phải sạ lúa hè-thu trễ hơn vì phải chờ mưa xuống rữa chất mặn. Diện tích lúa hè thu là 1 776 000 ha, năng suất là 3.53 tấn/ha, gặp rải rác tại mọi tỉnh, trừ các tỉnh nhiều đất mặn như Bạc Liêu, Ca Mau, Trà Vinh .
d. Lúa Đông Xuân
Đây chỉ là vụ lúa trái mùa vì làm trong mùa khô nên chỉ phát triển những nơi không bị mặn (Long An, An Giang, Đồng Tháp). Diện tích lúa Đông Xuân là 1 349 000 ha, năng suất là 5.3 tấn/ha. Như vậy, năng suất lúa Đông Xuân cao hơn lúa hè thu, vì lúa trổ bông vào mùa nhiều ánh sáng mặt trời, có cường độ quang hợp mạnh hơn. Các vùng nước ngọt có thể dùng máy bơm lên ruộng để làm vụ này. Người ta sạ tháng 11-12 và thu hoạch tháng 2-3.
7.2.2. hoa màu (bắp, đậu , khoai lang ..)
Bắp trồng trên phù sa ven sông Tiền, sông Hậu và bắp là màu nhiều tiềm năng phát triển nếu muốn đẩy mạnh chăn nuôi theo lối kỷ nghệ. Càng ngày, nông dân càng sử dụng các giống bắp lai có năng suất cao hơn giống địa phương. Vài ý niệm về diện tích các loại : bắp ( 17 000 ha), khoai lang (10 000 ha), sắn (7 600 ha)
7.2.3. rau cải.
Đây là rau cải hàng hoá trồng nhiều trên đất giồng hoặc đất phù sa đã thoát bớt nước nhờ trồng trên líp. Phải kể các loại rau tươi như xà lách, rau diếp, xà lách son tức cresson, các loài cà chua, cà pháo, khổ qua tức mướp đắng, các gia vị như ớt, tỏi, hành, hẹ v.v.
7.2.4 cây ăn trái.
Các loại cây ăn trái thường tập trung trên các vùng phù sa nước ngọt ít bị lụt, dọc sông Tiền, sông Hậu như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ. Các vườn cây ăn trái thường nằm dọc theo sông, bờ kinh rạch, tại các cù lao còn gọi là cồn như cồn Phụng, cồn Tân Long hoặc trên các đất giồng của tỉnh Trà Vinh, Bến Tre . Có thể kể :
. xoài (Mangifera indica) nhiều ở Vĩnh Long, Mỹ Tho.
. chuối (Musa sapientum, Musa sinensis) tập trung ở Tiền Giang,Vĩnh Long, Bến Tre .
. khóm tức dứa (Ananas comosus) trồng trên đất phèn ở Long An, đất nhiễm mặn ở Cà Mau, Kiên Giang.
. cây có múi như cam, quít , chanh, bưởi trồng trên vùng phù sa nước ngọt giữa sông Tiền và sông Hậu.
. mãng cầu ta (Annona squamosa), mãng cầu xiêm (Annona muricata ).
. nhãn (Dicocarpus longan) ở Bạc Liêu . Nhãn được nhắc đến trong ca dao:
Hai ta như sen mùa Hạ, cúc mùa thu
Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn
Em theo chim, em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua
7.2.5. cây kỷ nghệ. Cây kỷ nghệ được phân loại thành cây kỷ nghệ ngắn ngày (như thuốc lá) và cây dài ngày như cây mía, thơm, dừa .. Dừa nhiều ở Bến Tre và cho cơm dừa, cũng như các phụ phẩm khác như xơ dừa, gáo dừa, thảm nệm xơ dừa, than gáo dừa, nguyên liệu cho dầu thực vật
8. Chăn nuôi
Ngành chăn nuôi ở ĐBCL có trâu, bò, heo, gia cầm, dặc biệt là vịt.
Trâu gặp nhiều ở Trà Vinh, Long An, Kiên Giang dùng để làm đất, cày bừa, kéo xe và có khuynh hướng giảm bớt với sự cơ giới hoá nông nghiệp.
Bò gặp nhiều các đồi núi Thất Sơn vì có đồng cỏ thả.
Heo gắn bó với cuộc sống lễ lạc, tôn giáo của người nông dân qua câu ca dao:
Anh đau em vái tận tình
Vái cho anh mạnh, mở cửa đình cúng heo
Châu thổ Cửu Long có nhiều tiềm năng sản xuất heo: thực vậy, hình ảnh 'con heo đi theo cây lúa' nói lên sự tương quan của sự trồng lúa với phó sản chính là cám với việc chăn nuôi heo. Có hai loại hình nuôi heo: nuôi heo theo quy mô nhỏ trong gia đình, chủ yếu chỉ lấy công làm lời và nuôi heo theo lối kỹ nghệ với chuồng trại quy mô lớn, giống heo cải thiện, thực phẩm gia súc, thuốc thú y..
Chăn nuôi vịt cũng là một ngành hợp với hệ thống kinh rạch chằng chịt tại miền đồng bằng này, với các đồng lúa sau khi thu hoạch có lúa rơi vãi, sâu bọ, cá, tôm, cua, ốc :
Ra đi gặp vịt thì lùa,
Gặp duyên thì kết, gặp chùa thì tu .
Con vịt đóng góp lớn trong các sản phẩm tiêu dùng trong nước cũng như xuất cảng: trứng vịt muối, vịt đông lạnh, lông vịt..
Chăn nuôi gà cũng có hai hình thức: chăn nuôi gia đình, mỗi nhà nuôi vài con để cúng giỗ, biếu xén và chăn nuôi kỹ nghệ với các chuồng trại áp dụng các tiến bộ khoa học về giống cải thiện, thuốc thú y, thức ăn gia súc.
Ngành chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh xung quanh thành phố Saigon, nhờ du nhập từ các nước những giống bò cho nhiều sữa và nhờ một lượng đông đảo người tiêu thụ. Việc phát triển đàn bò sữa ngoại ô thành phố đã kéo theo việc nhiều nơi chuyên trồng cỏ thâm canh cung cấp thức ăn cho bò, chuyển đổi các nơi trồng lúa bấp bênh sang trồng cỏ thu hoạch lợi tức nhiều hơn.
9. Triển vọng khai thác trên các loại đất có vấn đề .
Tại ĐBCL, có nhiều loại đất có vấn đề : thực vậy, đất phèn thì nhiều độc tố như nhiều sắt, nhiều nhôm; đất mặn thì nhiều chất mặn. Cả 2 loại đất này cần hệ thống đê chống lủ, rửa phèn, rửa mặn ..
9.1 trên đất phèn.
9.1.1 lịch thời vụ.
Nguyên tắc là phải canh tác trong các giai đoạn thích hợp để tránh đỉnh cao của sự hoá chua trong đất và của sự thiếu hụt nước ngọt, đồng thời tránh thời gian lũ lụt. Thực vậy vào đầu mùa mưa, hàm lượng phèn ở tầng đất mặt tăng lên đột ngột nên cây cối lụi tàn, tôm cá chết.
Trên các vùng đất phèn, vào đầu vụ (cuối tháng 4), nông dân sau khi đốt đồng cho sạch cỏ dại, thì đất được cày bừa rồi họ 'sạ khô' với giống lúa sớm, sau đó là bừa lấp. Phải dùng giống lúa sớm vì khi gặp lúc phèn nhiều trong đất thì cây lúa cũng đã có 3-4 lá, đủ mạnh để đủ sức vượt lũ cuối tháng 8 và thu hoạch trước khi lũ đến .
Với các cơn mưa đầu mùa, cây lúa nẩy mầm và khi phèn tăng lên đột ngột do mưa xuống nhiều thì cây lúa đã mạnh nên có thể kháng cự được các độc tố phèn. Có 2 giai đoạn rõ rệt trong kỷ thuật này :
1/ lúc đầu sạ khô và tiêu nước mặt triệt để bằng mọi rãnh tiêu lớn nhỏ, chỉ giữ đất vừa ẩm nhờ mưa cho lúa sinh trưởng.
2/ khi mưa đủ lớn thì đắp bờ đóng cống giữ nước lại trên đồng cho ngập chân lúa, tránh hiện tượng oxy hoá phèn.
9.1.2. quản lí đất và nước.
- trên lúa
Ở những vùng có nhiều nước ngọt có thủy triều lên xuống (Bình Dương), nông dân chỉ cần đắp đê quanh ruộng, khi nước thủy triều lên, sẽ mở bọng cho nước sông vào và giữ nước này trên ruộng, sau đó sẽ cho chảy từ từ xuống sông khi nước thủy triều rút trong nhiều giờ để nước sông có thời giờ làm tan phèn và tan muối .
Ở những vùng không có nhiều nước ngọt mà chỉ trông cậy vào mưa thì công tác xả mặn, xả phèn đòi công phu hơn vì cần có tuyến đê bao quanh vùng để không cho nước mặn , nước phèn ở các vùng kế cận xâm nhập. Tuyến đê bao này cũng có tác dụng chống luôn lũ và sử dụng như con lộ để di chuyển; trong khu vực được bảo vệ, phải có kênh mương và hệ thống xả nước ra vô. Sau đó làm đất kỷ, cày sâu xới đất lên ở các vùng không có tầng sinh phèn gần mặt đất. Chờ mưa xuống làm tan phèn, tan muối, nông dân mới tháo nước để xả mặn, xả phèn qua các miệng cống hay xuống các mương từ đó nước mặn, nước phèn rút vào ống bọng và theo ống chảy ra sông rạch .
Nhà nông còn khắc phục được đất phèn nhờ làm chủ nước trời và lũ : nhà nông tận dụng lớp đất thịt trên mặt, kết hợp với lợi dụng lũ và mưa, thậm chí với nước ngầm, để ếm phèn : ếm phèn là tạo điều kiện để có một lớp nước mặt trên đất phèn, tránh không cho đất tiếp xúc với không khí trong mùa khô, khiến quá trình oxy-hoá không thực hiện được, làm cho phèn hoạt động trở thành phèn tiềm tàng ít nguy hiểm cho cây cối hơn.
- trên cây trồng cạn
Những nơi cây lúa không thể canh tác được vì gặp đất phèn nặng, nông dân trồng cây rễ cạn. Líp cao là đòi hỏi đầu tiên của việc canh tác hoa màu trồng cạn như sắn, khoai mở, mía trên đất phèn. Mỗi líp rộng 3-5 mét, xen kẻ với những mương rộng 2-2.5 mét, sâu khoảng 1-1m.2 Các mương líp thông với nhau và nối với kênh rạch tự nhiên qua cống đóng mở gọi là bọng. Bọng đóng lại để giữ nước vào mùa khô (tháng 2,3, 4) và mở ra để thay nước củ khi thủy triều lên.
Nhờ thủy cấp hạ xuống do lên líp nên các độc tố của đất như nhôm, sắt được rửa trôi đi và sau đó, mới canh tác được ; trên líp, trồng sắn, khoai mỡ, mía, khóm (thơm), dưới rãnh nuôi thủy sản. Qua nhiều năm canh tác, đất líp bớt phèn ngày càng thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Nếu các vùng phèn đó mà dễ bị lụt thì phải làm đê bao chống lũ cao hơn đỉnh lũ từ 0.6-0.7m, mặt đê rộng trở thành các trục giao thông. Đối với những cây lâu năm, nông dân còn đắp những ụ đất cao xung quanh gốc. Qua nhiều mùa mưa được rữa phèn liên tiếp, các mô cao ấy dần dần bớt phèn và sự phát triển cây cũng thuận lợi hơn. Có thể sử dụng gốc tháp kháng phèn như dùng cây bình bát để tháp cây mãng cầu xiêm (2 cây này cùng một họ thực vật).
Đến mùa khô ráo, phèn di chuyển từ các tầng sâu lên đất mặt do sự mao dẫn; phèn bốc hơi để lại những váng đất màu vàng rơm làm hại cây trồng; những váng này thường thấy dọc các đáy rãnh giữa các líp. Nếu mặt đất được xới xáo thì hiện tượng mao dẫn không còn, phèn không bị bốc hơi và không thể lên tới đất mặt. Cần các kênh đào cung cấp nước ngọt để rửa phèn mương líp và ngọt hoá dần cánh đồng và vào các ao hồ để nuôi cá. Như ở các vùng Củ Chi phải dựa vào nguồn nước ngọt của kênh đưa từ hồ Dầu Tiếng về. Những vùng đất phèn ở đây nhờ các cải thiện như trên (đê bao, liếp, mương, nguồn nước ngọt) nên có thể trồng thơm xen lẫn cây ăn trái . Thơm cho năng xuất cao từ 8-10 tấn/ha .
9.2 trên đất mặn
Trên đất mặn duyên hải, phải làm đê ngăn mặn ven biển. Trên đê có thể là đường giao thông, dưới đê sẽ có nhiều cống xả mặn. Các cống phải được thiết kế theo kiểu tự động đóng vào lúc ngăn mặn và mở ra lúc thoát lũ.
Đọc tiếp Phần 3.
|