26/9/2020
Cập nhật hiểu biết về:
Nước Cam Bốt ngày nay
G S Tôn Thất Trình
Phần 2.
Thời đại đen tối Căm Bốt ( 1431 - 1863 )
Thời đại Đen tối Căm Bốt ( 1431 - 1863 ) , còn gọi là Thời kỳ Trung đẳng - Middle Period kéo dài hơn 400 năm, nói tới thời kỳ lịch sử từ đầu thế kỷ thứ 15 đến năm 1863 , khi Pháp bảo hộ Căm Bốt. Các nguồn thông tin đáng tin vậy, đặc biệt cho 2 thế kỷ thứ 15 và 16 rất hiếm có. Một giải thích quyết định liên quan đến các sự cố cụ thể rành rành về suy thóai Đế Quốc Khmer chưa bao giờ xuất bản cả . Tuy nhiên, đa số các nhà sử học cận đại nhất trí là nhiều thay đổi khác biệt và dần dà tôn giáo , triều đại tính cách quân sự và hành chánh, các vấn đề môi trường và mất cân bằng sinh thái, trùng nhập những thay đổi quyền uy ở Đông Dương và phải được liệt kê đầy đủ hầu đem tới giải thích . Những năm gần đây tụ điểm hướng đáng kể về những nghiên cứu trên thay đổi khí hậu, tương tác môi trường - con người và những hậu quả sinh thái học. Chữ khắc trên đền đài chấm dứt vào thập niên thứ 3 thế kỷ thứ 14 , không tái diễn mãi cho đến giữa thế kỷ thứ 16. Ghi chép của ảnh niên đại hòang gia đứt quảng với vua Jayavarman IX Parameshwara ( hay Jayavarman -Paramesvara ) và ở đây không còn có một ghi chép hiện thời nào, ngay cả một danh tánh vua trên 200 năm trời . Xây cất kiến trúc các đền đài vĩ đại đã ngừng yên, sau đời vua Jayavarman VII . Theo tác giả Michael Vickery chỉ còn hiện diện nguồn ngoại cho Căm Bốt thế kỷ thứ 15 là các sử liệu Tây Lỗ (? ) - Shilu đời nhà Minh bên Tàu và Biên niên hòang gia - Royal Chronicle sớm nhất của Ayutthaya , Thái Lan . Vương Tây Trịnh (? ) - Wang Shi zhen , một học giả Tàu thế kỷ thứ 16 nhận xét : “ Các sử gia chánh thức, không bị kiềm chế và khéo léo che đậy sự thật, thế nhưng không thể gạt bỏ qua các đài kỷ niệm, các tượng chúng ghi nhớ cùng các tài liệu chúng sao chép. Điểm tham khảo chánh cho tòan thế kỷ thứ 15 là việc Xiêm La (Thái Lan ngày nay ) can thiệp vài tính chất không nói ra ở kinh đô Yasodharapura ( Angkor Thom), vào năm 1431 . Sử gia liên hệ sự cố này với chuyễn hướng của trung tâm chánh trị Căm Bốt đến vùng Phnom Penh, Long Việt - Longvek và sau đó đến U Đông - Oudong. Khi Xiêm La trở thành kình địch chánh của Căm Bốt ,sau khi mất Angkor , thì mô hình chủ quyền trái ngược nhau, Đế Quốc Khmer thử nghiệm tốt đẹp lâu dài tại biên cương mình phía Tây, cũng chấm dứt. Các nguồn cho thế kỷ thứ 16 lại nhiều hơn. Vương quốc lúc này, lấy sông Mê Kông làm trung tâm, trở nên phồn thịnh trong khung cảnh thành phần tòan vẹn mạng lưới giao thương đường biển, nơi tiếp xúc đầu tiên với các nhà thám hiểm và các tay tứ chiến giang hồ Âu Châu. Chiến tranh với Xiêm La thành quả là mất đất đai lảnh thổ rồi thủ đô Lô Việt - Longvek, Lovek cũng bị chiếm đóng năm 1594 . Dân Việt Nam trong công cuộc “ Nam Tiến” đặt chân đến Prei Nokor- Sài Gòn ở Châu thổ sông Mê Kông vào thế kỷ thứ 17 . Sự cố này đánh dấu tiến trình chầm chậm là Căm Bốt mất đường ra biển và giao thương biển độc lập. Xiêm La và Việt Nam ngự trị tăng cường thêm trong hai thế kỷ thứ 17 và 18 , kết quả là quyền uy của quốc vương Khmer giảm dần trở thành một quốc gia chư hầu . Đầu thế kỷ thứ 19 , lúc các triều đại Việt Nam và Xiêm La cũng cố thêm lên, Căm Bốt bị đặt dưới hai chủ quyền cai trị , sau khi mất hết chủ quyền quốc gia mình. John Crawfurd, người Anh tuyên bố : “ … Vua của Vương Quốc cũ sẳn sàng hạ mình chịu sự bảo hộ của bất cứ một nước Âu Châu nào …” Để cứu vớt Căm Bốt khỏi bị nhập vào Việt Nam và Xiêm La , Vua Ang Duong chịu nhận sự bảo hộ của Pháp thuộc địa. Bảo hộ này khỏi sự, khi Vua Norodom Prohmbarirak ký kết chánh thức công nhận Pháp Bảo Hộ, ngày 11 tháng 8 năm 1863 .
Thời kỳ Pháp thuộc địa ( 1863 - 1953 )
Năm 1863 , Vua Norodom ký một thỏa hiệp với Pháp thiết lập nền bảo hộ trên khắp vương quốc . Quốc gia dần dần chịu Pháp thuộc địa cai trị. Vào Thế Chiến Thứ Hai, Chiến cuộc Pháp - Thái năm 1940- 41, khiến uy quyền thuộc địa Đông Pháp yếu kém hẳn đi . Chánh phủ Vichy- Pháp Quốc xã ký một thỏa hiệp với Nhật bổn, chịu để cho Quân đội Nhật di dịch suốt Đông Pháp . Trong lúc đó ,Chánh phủ Thái Lan dưới sự lảnh đạo của Thống Chế Plaek Phibunsongkhram thân Nhật, lợi dụng ưu thế này , xâm chiếm các tỉnh miền Tây Căm Bốt. Tình trạng Căm Bốt khi Thế Chiến chấm dứt rất là hổn lọan. Pháp Tự Do - Free French , dưới sự điều khiển của tuớng Charles de Gaulle, cương quyết tái chiếm Đông Pháp, tuy rằng họ cống hiến cho Căm Bốt và các xứ Đông Pháp khác họ bảo hộ một nền tự trị họ bao vây chặc chẻ . Tin tưởng vào “ sứ mệnh văn minh hóa - civilizing mission” , họ hình dung Đông Pháp tham gia vào “ Một Liên Hiệp Pháp - French Union, Union Francaise các cựu thuộc địa- bảo hộ, chia sẽ một kinh nghiệm chung văn hóa Pháp.
Chánh Quyền Sihanouk ( 1953 - 70 )
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp và trong thời kỳ Nhật chiếm Căm Bốt, Vua trẻ tuổi Norodom Sihanouk tuyên bố Vương Quốc độc lập Kampuchea , sau khi Nhật yêu cầu chánh thức. Ngay sau đó, chánh phủ Nhật phê chuẩn trên danh nghĩa nền độc lập của Căm Bốt và thiết lập một tòa lảnh sự ở Phnom Penh. Chánh phủ mới bỏ ngay việc la mã hóa ngôn ngữ Khmer mà chánh quyền thuộc địa Pháp đã bắt đầu thực thi và chánh thức tái lập chữ viết Khmer. Biện pháp chánh phủ ngắn thời thiết lập lại rất được ưa thích và trở thành lâu đời ,vì kể từ đó không một chánh phủ nào lại cố gắng la mã hóa chữ viết Khmer nữa. Sau khi các đơn vị quân sự Đồng Minh vào Căm Bốt , lực lượng quân sự Nhật bị giải giáp và đưa về lại Nhật. Pháp đã đủ khả năng tái lập nền cai trị thuộc địa ở Phnom Penh tháng 10 cùng năm . Vận động lớn cho độc lập của Sihanouk được Pháp miễn cưỡng chấp nhận trao trả chủ quyền cho Căm Bốt . Một thỏa hiệp bán phần được ký kết tháng10 năm 1953. Rồi Sihanouk tuyên bố là đã hoàn tất độc lập và huy hòang trở về Phnom Penh. Thành quả của Hội nghị Giơ neo- Genève Conference là Căm Bốt đã đòi được quân đội Việt Minh rút khỏi lảnh thổ và chống trả lại mọi vi phạm còn sót lại trên chủ quyền Căm Bốt của các nước ngọai bang. Trung lập là yếu tố chánh của chánh sách ngọai giao Căm Bốt các thập niên 1950 và 1960. Giữa thập niên 1960, một phần các tỉnh phía Đông Căm Bốt, được sử dụng làm căn cứ cho quân đội Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( NVA/NLF ) họat động đánh Miền Nam Việt Nam, và hải cảng Sihanoukville dùng để tiếp tế cho các lực lượng này .
Khi các họat động NVA/VC tăng thêm, Hoa Kỳ và Nam Việt Nam lo ngại và năm 1969 , Hoa kỳ bắt đầu một lọat thả bom đột kích kéo dài 14 tháng nhắm các yếu tố NVA/VC , góp phần làm Cam Bốt bất ổn . Chiến dịch thả bom không xa quá 10 dặm Anh rồi sau đó không xa qúa 20 dặm Anh ( 32 Km ) bên kia biên giới Việt Miên, nơi dân chúng Căm Bốt đã bị quân đội Bắc Viêt đuổi đi. Hòang thân Sihanouk lo sợ chiến cuộc giữa Cọng Sản Bắc Viêt và miền Nam Việt Nam tràn qua Căm Bốt, nên công khai chống đối ý kiến chiến dịch thả bom đột kích của Hoa Kỳ dọc theo biên giới Căm Bốt - Việt Nam và bên trong lảnh thổ Căm Bốt . Tuy nhiên, Peter Rodman tuyên bố : Hoàng thân Sihanouk than phiền đắng cay với Hoa Kỳ về các căn cứ Bắc Việt trên lảnh thổ Căm Bốt và đón mời Hoa Kỳ oanh kích chúng”. Tháng 12 năm 1967, Sihanouk nói với ký giả Stanley Karnow của báo Washington Post là nếu Hoa Kỳ muốn thả bom các khu trú ẩn Cọng sản Viêt Nam này, ông sẽ không phản đối, trừ phi khi dân chúng Căm Bốt bị giết chết. Thông điệp tương tự cũng được gửi tới Chester Bowles phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Johnson, tháng giêng năm 1968. Cho nên Hoa Kỳ không có một viện cớ nào để lật đổ Sihanouk. Tuy nhiên, hòang thân Sihanouk muốn Hoa Kỳ và Nam Việt Nam, giữ tranh chấp Bắc - Nam Việt Nam ra ngòai Căm Bốt, xa hẳn biên cương Căm Bốt ; cho nên chỉ trích nặng nề Hoa Kỳ và chánh quyền Nam Việt Nam. Sihanouk phải đối đầu chiến đấu nội bộ của mình, vì lý do Khmer Đỏ dang bừng dậy, cũng không muốn dính dáng gì tới tranh chấp này cả. Sihanouk không cho phép Hoa Kỳ sử dụng không phận và không cảng cho các mục đích quân sự. Điều này làm Hoa Kỳ bối rối nhiều và góp phần vào cái nhìn Hoa Kỳ liệt Sihanouk vào lọai những kẻ có thiện cảm với Bắc Việt và là cái gai trước mắt . Nhưng các tài liệu giải mật cho thấy là vào cuối tháng 3 năm1970, chánh quyền Nixon đã hy vọng là tăng trữ “ liên hệ thân mật” với Sihanouk . Suốt thập niên 1960, chánh trị nội địa Căm Bốt bị phân cực mạnh mẽ. Phe chống đối chánh phủ lớn mạnh cùng giới trung lưu và dân phái tả, kể cả những nhà lạnh tụ tốt nghiệp Paris như Son Sen, Ieng Sary và Salot Sar ( sau đó gọi là Pol Pot ) hướng dẫn một cuộc nổi dậy dưới tên là Đảng Cọng Sản Kampuchea - CPK bí mật. Sihanouk gọi những kẻ nội lọan này là “Khmer Đỏ - Khmer Rouge, Red Khmer”. Nhưng năm 1966, bầu quốc hội lại nghiêng nặng về phe hửu và tướng Lon Nol thành lập chánh phủ mới, kéo dài tới năm 1967. Các năm 1968 và 1969, nội lọan trầm trọng thêm. Tuy nhiên, nhân viên chánh phủ và quân đội, bất mãn về kiểu cách cai trị và xa rời Hoa Kỳ của Sihanouk , nhìn thấy một nguyên do để lật đổ Sihanouk .
Cộng Hòa Khmer và Chiến Tranh ( 1970 - 75 )
Đang viếng thăm Bắc Bình năm 1970 , Sihanouk bị đảo chánh quân sự do thủ tướng Lon Nol và hòang thân Sisowath Sirik Matak lãnh đạo vào sớm ngày 18 tháng 3 năm 1970. Dù Sihanouk viện dẫn, không có chứng cớ hiển nhiên là đảo chánh do CIA Hoa Kỳ dự tóan. Ngày 12 tháng 3 năm 1970, Chánh sở CIA sở tại nói cho Washington là căn cứ theo những thông tin từ Sirik Matak, em họ Sihanouk, thì “ quân đội Căm Bốt đã sẳn sàng làm đảo chánh”. Lon Nol nắm chánh quyền sau đảo chánh quân sự và ngay tức khắc đưa Căm Bốt liên minh với Hoa Kỳ. Sơn Ngọc Thành , đối thủ của Pol Pot, tuyên bố ủng hộ chánh phủ mới. Ngày 9 tháng 10, nền quân chủ Căm Bốt bị hủy bỏ và Căm Bốt có danh xưng mới là Cộng Hòa Khmer . Chế độ mới , ngay tức khắc, yêu cầu Cọng Sản Việt Nam rời khỏi Căm Bốt .
Hà Nội bác bỏ yêu cầu của Cọng Hòa Khmer mới, không chịu rút lui quân đội NVA. Để trả đủa, Hoa Kỳ chuyễn động cung cấp viện trợ vật chất cho lực lượng quân đội chánh phủ mới , vừa chiến đấu với các quân nổi lọan CPK , vừa chống các lực lượng NVA . Các lực lượng Bắc Việt và Việt Cọng khổ công gìn giữ các khu trú ẩn và đường tiếp tế cho Bắc Việt , tức tốc tung ra những tấn công vỏ trang đánh chánh phủ Khmer mới . Bắc Việt mau lẹ chiếm phần lớn Miền Đông Căm Bốt , đến cách Phnom Penh chỉ 24 km ( 15 dặm Anh ) . Bắc Việt chuyễn các đất đai mới chiếm cho cho Khmer Đỏ. Vua cũ khẩn cầu các kẻ theo mình giúp sức lật đổ chánh phủ , thúc đẩy khởi sự nội chiến . Tháng tư năm 1970 , Tổng thống Nixon tuyên bố với công chúng Hoa Kỳ là Hoa Kỳ và lực lượng bộ binh Miền Nam Việt Nam đã tiến vào Căm Bốt trong một chiến dịch nhằm phá phá tan các vùng căn cứ NVA ở Căm Bốt. Thật ra Hoa Kỳ đã thả bom các vị trí Bắc Việt và Việt Cọng ở Căm Bốt đã hơn 1 năm rồi . Dù Hoa Kỳ và các lực lượng miền Nam bắt được hay phá hủy đựợc rất nhiều trang bị, chận đứng các lực lượng NVA đã tỏ ra vô hiệu ; NVA vẫn né tránh được .
|
Lon Nol |
Lãnh đạo Cộng Hòa Khmer bị phiền nhiễu vì bất hòa giữa ba nhân vật chánh: Lon Nol , Sri Matek bà con với Sihanouk và In Tam, lảnh tụ Hạ Viện. Lon Lon Nol duy trì được quyền lực một phần vì không ai sẳn sàng thay thế Lon Nol cả . Năm 1972 , một hiến pháp được chấp nhận, quốc hội được bầu lên và Lon Nol trở thành tổng thống. Nhưng bất hòa, các vấn đề nhập 30 000 quân nhân vào một lực lượng chiến đấu quốc gia hơn 200 000 người, tham nhũng lan tràn làm yếu kém chánh quyền dân sự và quân đội.
Nổi lọan Khmer Đỏ trong nước Căm Bốt tiếp tục gia tăng nhờ tiếp tế và hổ trợ quân sự của Bắc Việt . Pol Pot và Ieng Sary khẳng định chủ trì trên các nhà Cọng Sản Việt Nam huấn luyện, một số lớn bị thanh trừ. Cùng lúc, lực lượng Khmer Đỏ ( CPK ) trở nên mạnh hơn và độc lập hơn đối với các đở đầu Việt Nam. Đến năm 1973, CPK chiến đấu với các lực lượng chánh phủ không có hay rất ít có quân đội Bắc Việt hổ trợ va Khmer Đỏ đã kiểm sóat gần 60% lảnh thổ và 25 % dân số Căm Bốt. Chánh phủ làm 3 cố gắng không thành công đàm phán với quân nổi lọan , nhưng đến năm 1974 , CPK họat động công khai theo cấp sư đòan và vài lực lượng chiến đấu NVN đã tiến vào Miền Nam Việt Nam. Lon Nol chỉ còn kiểm sóat vài vị trí bé nhỏ quanh các thị trấn và các đường giao thông chánh. Hơn 2 triệu người tị nạn chiến tranh sinh sống ở Phnom Penh và các thị trấn khác. Vào ngày 1 tháng giêng 1975, quân đội Cọng Sản phóng ra một cuộc tấn công làm sụp đổ Cộng Hòa Khmer, sau 117 ngày đánh nhau khốc liệt nhất . Cùng lúc, những tấn công quanh thủ đô Phnom Penh cũng giữ tại chỗ các lực lượng Cộng Hòa, trong khi các đơn vị CPK tràn ngập các căn cứ hỏa lực kiểm sóat đường tiếp tế khẩn thiết hạ lưu sông Mê Kông . Không vận đạn dược và lúa gạo Hoa Kỳ tài trợ chấm dứt, khi Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối viện trợ thêm cho Căm Bốt. Chánh phủ Lon Nol đầu hàng ngày 17 tháng tư năm 1975, 5 ngày sau khi phái bộ Hoa Kỳ tản cư khỏi Cam Bốt.
Liên hệ giữa thảm bom khối lượng Hoa Kỳ thả trên Căm Bốt và sự tăng trưởng của Khmer Đỏ, theo ngôn từ mộ binh và hổ trợ của dân chúng, đã là một đề tài đáng chú ý cho các sử gia . Vài sử gia kể ra là sự can thiệp của Hoa Kỳ và chiến dịch thả bom ( kéo dài 1965 - 1973) như thể là một thừa tố ý nghĩa, đã đưa tới vụ nông dân Căm Bốt hổ trợ mỗi ngày mỗi tăng cho Khmer Đỏ . Tuy nhiên David Chandler, nhà viết tiểu sử Pol Pot, biện cứ là việc thả bom “ đã có ảnh hưởng dân Hoa Kỳ mong muốn , nghĩa là phá vỡ vòng vây Phnom Penh” .Peter Rodman và Michael Lind cho rằng can thiệp Hoa Kỳ đã cứu Căm Bốt khỏi sụp đổ các năm 1970 và năm 1973 . Craig Etcheson đồng ý là “ không vững được “ khẳng định là can thiệp Hoa Kỳ đã giúp cho Khmer Đỏ thành công , trong khi Etcheson cũng công nhận là can thiêp này có thể đóng một vai trò nhỏ tăng cường tuyễn mộ binh lính cho dân nổi lọan. Còn William Shawcross viết là Hoa Kỳ dội bom và tiến quân vào đất đai, đã làm cho Căm Bốt rối tung beng, một rối lọan Sihanouk đã cố gắng nhiều năm né tránh. Việt Nam can thiệp vào Căm Bốt , tung ra theo yêu cầu của Khmer Đỏ , thường được xem là một thừa tố chánh cho sự thành công của Khmer Đỏ theo nhiều nhà sử học Hoa Kỳ , kể cả Shawcross . Sau đó Việt Nam cũng công nhận là đã đóng một “vai trò quyết định” cho Khmer Đỏ chiếm chánh quyền . Còn Trung Quốc” võ trang và huấn luyện” Khmer Đỏ trong thời kỳ nội chiến vẫn tiếp tục gíúp Khmer Đỏ nhiều năm tới .
Kampuchea Dân chủ ( thời đại Khmer Đỏ ) ( 1975 - 79 )
|
Pol Pot năm 1978 |
Ngay sau khi thắng trận , CPK ra lệnh mọi thành phố và thị trấn phải tản cư, đưa toàn thể dân thị thành ra miền quê làm việc như nông dân , vì CPK cố thay đổi xã hội Khmer theo dạng kiểu mẩu Pol Pot đã nhận thức. Chánh phủ mới cố tìm kiếm thay đổi tòan diện cơ cấu xã hội Căm Bốt . Mọi tàn tích xã hội cũ cũng như tôn giáo đều bị hủy bỏ. Nông nghiệp bị tập thể hóa , và phần căn bản công nghệ còn sống sót, đều bị gạt bỏ và đặt dưới sự kiểm soát quốc gia. Liên hệ của Kampuchea Dân chủ với Việt Nam và Thái Lan tệ hại mau lẹ, thành quả của các xung đột biên giới và khác biệt ý thức hệ . Tuy là Cọng Sản , CPK mảnh liệt quốc gia tính và mọi thành phần Khmer Đỏ đã có sinh sống ở Việt Nam đều bị thanh trừng. Kampuchea Dân Chủ thiết lập quan hệ chặc chẻ với Cọng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và tranh chấp Căm Bốt - Việt Nam trở nên một thành phần của cuộc cạnh tranh Tàu- Nga Sô Viết ; Mạc Tư Khoa - Moscow ủng hộ Việt Nam. . Xung đột biên giới tệ hại thêm khi quân sự Kampuchea Dân Chủ tấn công các làng Việt Nam ( xem phần nói về các sự cố này ở các bài về tỉnh Gia Lai, Trà Vinh … của Tập san “Theo dõi Bóng Dáng …” Chế độ cắt đứt liên hệ với Hà Nội tháng chạp năm 1977 , phản đối Việt Nam cố tâm tạo dựng Liên Hiệp Đông Dương - Indochina Federation . Giữa năm 1978, lực lượng Việt Nam xâm chiếm Cambodia , tiến sâu chừng 48 km ( 30 dặm Anh ) trước khi mùa mưa bắt đầu. Những lý do Trung Quốc ủng hộ CPK là để ngăn ngừa phong trào Liên kết Đông Dương - Pan Indochina và duy trì ưu thế quân sự Tàu ở trong vùng . Liên hiệp Sô Viết - Nga Sô ủng hộ một Việt Nam mạnh mẽ là để duy trì một chiến tuyến thứ hai chống lại Trung Quốc lỡ khi có xung đột Nga - Tàu và ngăn ngừa Trung Quốc bành trướng thêm . Kể từ khi Xít ta Lin - Stalin chết , liên hệ giữa Trung Quốc Mao kiểm sóat và Nga Sô tốt đẹp nhất, cũng chỉ là âm ấm - thiếu nhiệt tình nhưng không lạnh nhạt. Từ tháng hai đến tháng ba năm 1979, Trung Quốc và Việt Nam sẽ đánh nhau một cuộc chiến ngắn ngủi Việt Trung quanh vấn đề này. Tháng chạp năm 1978 , Việt Nam tuyên bố thành lập Mặt Trận Thống Nhất Kampuchea Cứu Quốc - Kampuchean United Front for National Salvation , KUFNS dưới quyền Heng Samrin , nguyên là chỉ huy một sư đòan Kampuchea Dân Chủ . Gồm có các Cọng Sản Khmer ở lại Việt Nam sau 1975 và các chức quyền của khu vực miền Đông như Heng Samrin, Hun Sen ; những người đã rời Căm Bốt về Việt Nam năm 1978. Cuối năm 1978 , lực lượng Việt Nam tung ra một cuộc xâm chiếm tòan thể Căm Bốt, chiếm Phnom Penh ngày 7 tháng giêng năm 1979 và đuổi các thành phần còn lại của quân đội Kampuchea Dân Chủ về phía Tây, phía Thái Lan. Ở nội tình CPK , nhóm lảnh đạo tốt nghiệp Paris- Pol Pot, Ieng Sary , Noun Chea và Son Sen - nắm quyền kiểm sóat. Tháng giêng năm1976, một hiến pháp mới thiết lập Kampuchea Dân Chủ là một Cộng Hòa Nhân Dân Cọng sản- Communist People ‘s Republic và một Quốc hội Đại diện Nhân dân Kampuchea - PRA, Assembly of the Representatives of the People of Kampuchea gồm 250 nghị viên , hầu lựa chọn ban lảnh đạo Quốc gia Tập thể , chủ tịch ban này sẽ là chủ tịch nước. Ngày 4 tháng 4, hòang thân Sihanouk từ nhiệm Chủ tịch Nước . Ngày 14 tháng tư, trong phiên họp đầu tiên , PRA tuyên bố là Khieu Samphan sẽ làm Chủ tịch ban lảnh đạo tập thể trong 5 năm . PRA cũng lựa chọn một nội các 15 người, do Pol Pot đứng đầu ở chức thủ tướng. Hoàng thân Sihanouk bị bắt giữ cầm cố tại gia .
Những liên can xã hội và văn hóa của Chế độ Khmer Đỏ
|
Có tới 2 triệu người chết vì chế độ Khmer đỏ do Pol Pot lãnh đạo |
Hàng ngàn người chết đói hay vì bệnh tật trong thời gian di tản và sau đó, nhiều người này bị bắt buộc phải rdo Pol Pot lãnh đạo ời khỏi các thị trấn đến các làng mới dựng lên, thiếu hẳn thực phẩm, dụng cụ nông nghiệp và săn sóc y tế . Nhiều người quen sinh sống thành thị đã mất hết khéo léo cần thiết sống sót trong môi trường nông thôn. Hàng ngàn người chết đói trước mùa thu họach đầu tiên . Thiếu ăn và thiếu dinh dưỡng - gần mức chết đói là chuyện thường xuyên những nắm đó . Phần lớn các nhà lảnh đạo quân sự và dân sự chế độ cũ, không biết cách che dấu quá khứ bị hành hình . Vài tộc dân ở Căm bốt , tỉ như tộc dân Chàm thống khổ đặc thù và là mục tiêu ngược đãi hung bạo. Đến điểm vài nguồn quốc tế gọi là” diệt tộc Chàm - Cham genocide” . Tòan thể cả gia đình và thị trấn bị nhắm vào và bị tấn công, với mục đích là giảm bớt số lượng đi và cuối cùng là đào thải họ. Đời sống ở “ Kampuchea Dân Chủ “ rất khắc nghiệt và thô bạo . Ở nhiều vùng xứ sở, dân gian bị lùa vào và xử tử vì nói tiếng ngọai quốc , đeo kiếng ( kính ), sục sọi tìm thực phẩm và cả khi khóc người thân yêu quá cố . Các doanh thương và thư lại cũ, bị săn bắt và bị giết chết tòan gia . Khmers Đỏ sợ họ vẫn còn những tin tưởng để chống đối chế độ . Một vài kẻ trung thành Khmers Đỏ cũng bị giết chết, vì không tìm đủ số lượng “Chống đối cách mạng - counter revolutionaries” để xử tử . Các khảo cứu cận đại đã tìm ra 20 000 mồ chôn tập thể thời Khmers Đỏ khắp Căm Bốt . Nhiều nghiên cứu ước lượng số người chết là giữa 740 000 và 3 000 000 , thường giữa 1,4 triệu và 2, 2 triệu và có lẽ phân nữa chết chóc là do bị hành hình và phần còn lại là do chết đói và bệnh tật . Dự Án Diêt dân Căm Bốt của Yale- Cambodian Genocide Project do Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ tài trợ, ước lượng là khỏang 1.7 triệu người chết. R .J. M Rummel , một nhà phân tích lịch sử chánh trị chết chóc hình dung là 2 triệu . Điều tra Liên Hiệp Quốc báo cáo 2-3 triệu khi UNICEF - Cơ Quan Nhi Đồng Quốc Tế ước lượng là 3 triệu. Sau 5 năm khảo cứu các mồ chôn tập thể, nhà khảo cứu Craig Etcheson của Trung tâm Tài liệu Căm Bốt , cho biết các mồ chứa thi thể còn sót của 1 386 734 người .
Việt Nam chiếm đóng PRK ( 1979 - 1993 )
Ngày 10 tháng giêng năm 1979, sau khi quân đội Việt Nam và KUFNS xâm chiếm Căm Bốt, Cộng Hòa Nhân Dân Kampuchea- PRK mới được thành lập , Heng Samrin làm Chủ tịch Nước . Lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot rút lui mau lẹ về biên giới Thái Lan . Khmer Đỏ và PRK đánh nhau tốn kém và rơi vào tay của các cường quốc to lớn là Trung Quốc , Hoa Kỳ và Nga Sô . Nội chiến được áp đặt lên trên Căm Bốt nghèo khổ , di dời 600 000 dân Căm Bốt vào các trại tị nạn, dọc theo biên giới giữa TháiLan và Căm Bốt . Chế độ mới sát hại hàng chục ngàn dân gian. Các cố gắng tái lập hòa bình bắt đầu ở Paris năm 1989, dưới tên Quốc Gia Căm Bốt , sau hai năm đàm phán cuối cùng, vào tháng 10 năm 1991, làm ra một thỏa hiệp hòa bình bao hàm phạm vi rộng lớn . Liên Hiệp Quốc được ủy nhiệm thực thi một lệnh ngưng bắn, giải quyết tị nạn và giải giáp tên gọi là Chức Quyền Liên Hiệp Quốc Chuyễn Tiếp- United Nations Transitional Authority, UNTAC ở Căm Bốt.
Căm Bốt Cận Đại ( 1993 đến nay )
Ngày 23 tháng 10 năm 1991, Hội Nghị Paris tái nhóm để ký kết một thỏa ước toàn diện cho phép Liên Hiệp Quốc tòan quyền hành động giám sát ngưng bắn, hồi hương các dân Khmer bị di dời dọc theo biên giới Thái Lan giải giáp , giải ngủ các nhóm quân đội phân tranh và sửa soạn những bầu cử tự do cho Căm Bốt. Hòang thân Sihanouk, Chủ tịch Ủy Ban Tối cao Quốc gia Căm Bốt - SNC và các thành viên khác của SNC trở về Phnom Penh tháng 11 năm 1991 , khởi sự tiến trình thỏa ước ở Căm Bốt. Sứ mệnh Tiến trước của Liên Hiệp Quốc -UN Advance Mission cho Căm Bốt được dàn trải cùng lúc, để duy trì liên lạc giữa các nhóm và bắt đầu các họat động gở mìn, hầu hồi hương mau lẹ khỏang 370 000 dân Căm Bốt từ Thái Lan. Ngày 16 tháng 3 năm 1992, UNTAC đến Căm Bốt để thực thi Kế Họăch Thỏa Ước Liên Hiệp Quốc. Trưởng Ban Tị nạn Liên Hiệp Quốc bắt đầu hồi hương tòan thể quy mô tháng 3 năm 1992 . UNTAC có một lực lượng dân sự và quân sự 22 000 người để thi hành tư do và đứng đắn, tổ chức bầu một Quốc Hội Lập Pháp - Constituent Assembly.
Trên 4 triệu dân Căm Bốt ( 90 % dân đủ tư cách đi bầu ) tham gia các bầu cử tháng 5 năm 1995, dù rằng các lực lượng Khmer Đỏ hay đảng PDK không bao giờ giải giáp hay giải ngũ cả, đã cấm đóan vài nơi không cho dân gian tham dự. Hòang thân Ranariddh thuộc đảng hòang gia FUNCINPEC nhận số phiếu cao nhất 45.5 % tổng số ; theo sau là Đảng Nhân Dân Căm Bốt -Cambodiáns People Party và kế tiếp là Đảng Phật Gíáo Dân chủ Tự Do - Buddhist Liberal Democratic Party . Rồi FUNCINPEC thỏa hiệp cùng các đảng khác đã tham dự bầu cử có đại diện ở Quốc Hội 120 nghị viên này, khởi sự thảo ra và chấp thuận một hiến pháp mới công bố ngày 24 tháng 9 năm1993 . Hiến pháp thiết lập một nền dân chủ tự do đa đảng trong khung cảnh một chế độ quân chủ - monarchy. Ranariddh và Hun Sen trở thành Đệ Nhất và Đệ Nhị Thủ tướng - First and Second Prime Ministers trong Chánh phủ Hòang Gia Căm Bốt - Royal Cambodian Government , RGC. Hiến Pháp cũng qui định một lọat rộng rải nhân quyền quốc tế công nhận.
Ngày 4 tháng 10 năm 2004 . Quốc Hội Căm Bốt chuẩn y một thỏa hiệp với Liên Hiệp Quốc thiết lập một tóa án xét xử các lhảnh đạo cao cấp có trách nhiệm làm những tàn bạo của Khmers Đỏ . Các quốc gia tặng dữ cam kết trả 43 triệu đô la Mỳ phần quốc tế cho ngân sách tổng cọng 3 năm, trong khi Chánh phủ Căm Bốt chịu trả 13.3 triệu đô la. Tòa án bắt đầu xét xử các lảnh tụ Khmers Đỏ năm 2008. Căm Bốt cũng bắt đầu phục hồi đất nước nhờ gở mìn cả hai Khmers Đỏ và Việt Nam đã sử dụng nhiều; phải cần khỏang 10 năm mới gở phần lớn mìn gài trong lảnh thổ Căm Bốt .
Quân chủ - Monarchy
Căm Bốt là một nền quân chủ lập hiến - constitutional monarchy , có nghĩa là Quân Vương ,Vua - the King ngự trị - reign chứ không cai trị - rule, tương tự Nữ Hòang Elisabeth II của Vương Quốc Anh. Vua chánh thức là Chủ tịch Nước và tượng trưng cho thống nhất và vĩnh cữu - eternity của quốc gia. Từ 24 tháng 9 năm 1993 đến ngày 7 tháng 10 năm 2004 , Norodom Sihanouk ngự trị làm Vua , sau khi đã nhận nhiều chức vụ khác ( kể cả Làm Vua ) từ năm 1941. Theo hiến pháp , Vua không có quyền hành chánh trị , nhưng vì Norodom Sihanouk được kính trọng trong nước , lời nói của ông có rất nhiều ảnh hưởng trên chánh phủ. Chẳng hạn tháng hai năm 2004 , ông ra tuyên ngôn : vì Căm Bốt là một nước “ Dân chủ Tự do - Liberal Democracy” cho nên phải cho phép hôn nhân cùng giới tính - gay marriage. Tuy những cái nhìn như vậy không mấy phổ biến ở Căm Bốt, ngôn từ của ông được dân gian Căm Bốt tôn trọng. Sihanouk thường cáu giận vì những tranh chấp trong chánh phủ ông; nhiều lần đe dọa thoái vị , nếu các nhóm chánh trị không hợp tác được với nhau . Điều này tạo áp lực cho chánh phủ phải giải quyết các khác biệt . Sau khi Norodom Sihanouk thóai vị năm 2004 , con ông là Norodom Sihamoni kế vị . Vua về hưu rất đuợc tôn trong trong xứ sở, vì đã dùng cả đời mình phụng sự Căm Bốt , còn tân vuơng thì sống lâu ngày ở Pháp. Thế cho nên chưa biết rỏ là Norodom Sihamoni có được tôn trọng như cha không ? Sihanouk chết ngày 15 tháng 10 năm 2014 ( ? )
Thời Thủ tướng Hun Sen ( từ 1998 … )
|
Hun Sen và Sihanouk (1991) |
Thủ tướng Căm Bốt là đại diện cho đảng cai trị ở quốc hội - national assembly . Ông hay Bà Thủ tướng do Vua Cam Bốt bổ nhiệm theo khuyến cáo của Chủ tịch và hai Phó chủ tịch Quốc Hội. Muốn trở thành Thủ tướng, Ông Hay Bà phải được Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm , trước tiên. Thủ tướng đứng đầu Chánh phủ Căm Bốt . Trước khi nhậm chức, ông hay Bà phải thành lập Nội các- Hội đồng tổng -bộ trưởng chịu trách nhiệm với Thủ tướng . Thủ tướng và Chánh phủ là cơ quan hành chánh Căm Bốt. Thủ tướng hiện tại là Hun Sen , thành viên của Đảng Nhân Dân Căm Bốt - CPP. Hun Sen đã đảm nhiệm chức vụ này kể từ cuộc bầu cử bị chỉ trích năm 1998 , một năm sau khi CPP đảo chánh đẩm máu ở Phnom Penh, lật đổ Thủ tướng bầu cử lên là hoàng thân Norodom Ranariddh , chủ tịch đảng FUNCINPEC . Hun Sen thề rằng mình sẽ cai trị cho đến năm 74 tuổi . Hun Sen là môt cựu thành viên Khmer Đỏ bỏ chạy và đã giám sát Căm Bốt tái phục hồi ra khỏi tro tàn chiến tranh . Chánh phủ ông thường xuyên bị tố cáo là bỏ quên nhân quyền và đàn áp đối lập . Sau thành quả bầu cử năm 2013 , phe đối lập tranh cải , 20 000 dân biểu tình phản đối , nhiều người bị thương tích và bị giết chết ở thủ đô Phnom Penh khi họ g đột với cảnh sát. Cuộc bầu cử quốc hội ngày 28 tháng 7 năm 2013 đem đảng Nhân Dân Căm Bốt của Hun Sen về nhất , chiếm 48.83 % tổng số dân đi bầu và 68 ghế, hơn phân nữa số 123 ghế Quốc Hội. Đảng về nhì là đảng Cứu Quốc Căm Bốt - Cambodian National Rescue Party , CNRP của chủ tịch là Sam Rainsy chiếm 44.46 % số phiếu và 55 ghế và đảng FUNCINPEC, chủ tịch đảng nguyên là Đệ Nhất Thủ tướng Norodom Ranariddh chỉ còn chiếm 3.66 % tổng số phiếu và không có ghế nào . Xuất thân là một nông dân tầm thường , Hun Sen bắt đầu nắm chính quyền năm 1985, khi mới 33 tuổi và ông thề thốt là sẽ cai trị Căm Bốt đến năm 74 tuổi , năm 2026 ( ? ), lâu dài không kém chi mấy Robert Mugabe của nước Zimbabwe và Nursultan Nazarbayev của nước Kazakhstan!
Sơ lược về phát triển Căm Bốt ngày nay
Chiến Lược
Tính đến tháng 4 năm 2015 , Căm Bốt tiếp tục tăng trưởng vạm vỡ dù đà tiến tiến triễn chậm đi. Mức tăng trưởng ăm 2014 ước lượng đạt 7% . Khu vực quần áo , cùng các khu vực xây cất và dịch vụ, đặc biệt là tài chánh và bất động sản, vẫn thúc đẩy tăng trưởng . Tuy nhiên, dự tính các năm 2015 và 2016 cho phát triễn kinh tế chỉ còn 6.9 %, vì phải chạm trán cạnh tranh mạnh mẽ hơn về xuất khẩu quần áo , nông nghiệp vẫn tăng trưởng yếu kém và khu vực du lịch tăng nhẹ nhàng hơn.
|
Một kỹ sư cơ khí sử dụng điện thoại thông minh khởi động chiếc xe hơi điện "Angkor EV 2014" do Campuchia sản xuất, ảnh chụp 14 tháng 2 năm 2014 tại Kandal, Campuchia. |
Nghèo khổ tiếp tục giảm đi ở Căm Bốt, dù bước tiến đã suy sụp đáng kể. Tỉ xuất nghèo khổ là17.7 % năm 2012, gần 3 triệu người nghèo trong số trên hơn 8.1 triệu người xếp hạng gần mức nghèo khổ . Gần 90% con số này sống ở vùng quê, nông thôn. Ngân Hàng Thế Giới- World Bank ước lượng gợi ý là Căm Bốt đã hòan tất Mục tiêu Phát triễn Thiên Niên -the Millenium Development Goal, MDG , giảm đi phân nữa nghèo khổ năm 2009. Tuy nhiên, đa số rộng rải các gia đình thóat khỏi nghèo khổ, không cách xa bao nhiêu mức nghèo khổ cả.
Phát triển nhân sinh- con người , đặc biệt ở lảnh vực y tế và giáo dục, vẫn là một ưu tiên phát triễn quan trọng cho Căm Bốt . Khoảng 42 % trẻ em dưới 5 tuổi thiếu dinh dưỡng và lùn tũn; và hơn phân nữa dân Căm Bốt không vào được cầu tiêu và không có các điều kiện vệ sinh thích nghi . Căm Bốt đã cố gắng cải thiện sức khỏe các bà mẹ , chăm sóc trẻ em còn bé , và thực hiện các chương trình gíáo dục sơ cấp ở nông thôn . Số em chết trên 100 000 bé sơ sinh giảm từ 427 năm 2005 xuống còn 170 năm 2014; tỉ xuất số em bé chết dưới 5 tuổi giảm từ 124 cho 1000 em bé sơ sinh còn sống năm 1998 , xuống chỉ còn 35 trên 1000 em năm 2014 và số nhập học trường sơ cấp lãi thực - net tăng từ 81 % năm 2001 đến 94.3% năm 2012 . Căm Bốt cũng thành công nhiều ngăn ngừa và chửa trị HIV/ AIDS ( tiếng Pháp là SIDA) . Năm 2011, gần 90 % các bệnh nhân AIDS ở Căm Bốt đã vào các cơ sở chửa trị virus ngược - antiretroviral treatment. Đây là một trong số tỉ xuất bao phủ cao nhất thế giới chậm tiến,đang mở mang.
Căm Bốt vẫn còn phải đối đầu một số thách thức phát triễn khác, gồm xử lý hu_~u hiệu đất đai và tài nguyên thiên nhiên , vững bền môi sinh và cai trị tốt đẹp - good governance. Tham nhũng và cung cấp dịch vụ công cộng yếu kém, đã cản trở phát triễn tòan bộ . Thách thức then chốt để tiến tới là kích thích các khu vực nông nghiệp và du lịch, hầu một lần nữa trở thành các động cơ mạnh mẽ cho tăng trưởng, hổ trợ cho giảm bớt nghèo khổ , cũng như để nới rộng và giữ vững tăng trưởng ở ngành công nghệ chế tạo kể luôn cả quần áo .
(Irvine ngày 24 tháng 7 năm 2015 ) |