2/9/2020
LƯỢC SỬ NGÀNH CHĂN NUÔI – THÚ Y
ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BS Thú Y Nguyễn Thượng Chánh
Đại Học Cần Thơ được thành lập với tên gọi là Viện Đại Học Cần Thơ, trực thuộc Bộ Giáo dục và Thanh niên. Hai năm sau (1968) Trường Cao Đẳng Nông nghiệp Cần Thơ được thành lập tọa lạc tại khu I, đường Mạc Tử Sanh (nay là đường 30/4) gần Đài Phát Thanh, trên khuôn viên bốn mặt tiền của Cư xá khu I và Trung Tâm Ngoại Ngữ hiện nay. Giảng viên hầu hết tốt nghiệp kỹ sư (KS) Súc khoa từ Trường Cao đẳng Nông-Lâm-Súc (NLS) Sài Gòn, tiền thân của Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Giám đốc (Hiệu trưởng) đầu tiên của trường là kỹ sư Phan Lương Báu và giám đốc tiếp theo là tiến sĩ Nguyễn Viết Trương (tốt nghiệp ở Đại Học Queensland, Úc) với các phụ tá giám đốc là Thầy Nguyễn Phi Long (Dr. Phil., England).
Khởi đầu, nhà trường chỉ đào tạo một ngành bậc đại học là nông nghiệp và cấp bằng kỹ sư Canh nông. Thời ấy, các Khoa tự tổ chức tuyển sinh. Trong đó, ngành Nông nghiệp bao giờ cũng tuyển sinh và nhập học sớm hơn các khoa khác để trải qua “Tuần lễ nhập môn”. Sinh viên mới vào trường kết nghĩa với đàn anh năm thứ ba và tháng nhập môn của năm thứ nhất do sinh viên năm thứ ba hướng dẫn. Sinh viên mới thực hành đủ mọi công việc của một nông dân chính hiệu, từ làm cỏ, cuốc đất, lên liếp, bón phân, trồng rau cho đến nhổ cỏ cấy lúa và hốt phân, quét chuồng, tắm heo... Các đàn anh năm thứ ba vừa làm vừa hò hét như giám thị cai quản tù binh, thậm chí sỉ vả khi đàn em có biểu hiện chậm chạp. Sau một tuần “huấn nhục”, nếu công tử, tiểu thơ nào
không kham nỗi hay không thích công việc nông nghiệp thì có thể giã từ và chuyển sang học ngành khác. Cuối năm thứ ba sinh viên phải làm một tiểu luận và cuối năm thứ tư làm luận trình tốt nghiệp (công trình định hướng chuyên môn của kỹ sư sau này). Sinh viên có thể chọn hướng nghiên cứu là cây trồng, vật nuôi, thủy nông hay cơ khí, thú y hoặc bảo vệ thực vật… Với cách đào tạo có thể gọi là khắc nghiệt như vậy, nên kỹ sư Nông nghiệp Cần Thơ có kỹ năng chuyên môn khá tốt, tính độc lập cao trong công việc. Điều đặc biệt là mặc dù được xem được “đẻ ra” từ Nông nghiệp Sài Gòn nhưng kỹ sư Canh nông (và Nông nghiệp sau đó) Cần Thơ mới ra trường được Nhà nước thời đó xếp bậc lương (470) cao hơn kỹ sư tốt nghiệp từ Nông nghiệp Sài Gòn (430).
Trường Cao đẳng được nâng cấp thành Khoa Nông nghiệp và giáo sư Nguyễn Viết Trương, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ kiêm nhiệm tiếp tục làm Khoa trưởng. Cũng năm này lớp Súc khoa đầu tiên (K6) gồm 17 sinh viên được tuyển chọn từ các sinh viên năm thứ nhất Nông khoa với thời gian đào tạo dự kiến là 4 năm và bằng cấp là Kỹ sư Súc khoa. Thời ấy, Súc khoa giảng dạy các môn khoa học liên quan đến động vật và sinh viên học cả động vật cạn lẫn động vật thủy sinh. Ban Súc khoa lúc bấy giờ đặt tại khu I, nơi mà hiện nay là nhà trẻ kéo dài đến tận dãy nhà 16 trong khu tập thể cán bộ. Cơ sở ban đầu bao gồm một phòng thí nghiệm (PTN) Dinh dưỡng Gia súc, một PTN Ngư nghiệp, một Bệnh xá Thú y và các Trại Chăn nuôi qui mô nhỏ gồm heo, bò, trâu, gà, vịt và thỏ phục vụ cho việc thực tập và thí nghiệm. Đầu tiên Trại được đặt ở khu I (đường 30/4) và sau đó chuyển về khu II (vị trí của Khoa Thủy sản bây giờ). Lớp học gần như liền kề bên Trại nên mỗi khi có cơn gió nhẹ đi qua, “Mùi thơm của ngành” lại len vào lớp học. Các khóa mới vào học trong Khoa ban đầu có hơi khó chịu, nhưng rồi cũng dần quen.
Trưởng Ban Súc khoa đầu tiên là quý thầy Nguyễn Đức Thành (KS NLS), tiếp đến là các quý thầy Nguyễn Thượng Chánh (KS NLS, DVM ĐH Chulalongkorn, Thái Lan) dạy Cơ thể học, Châu Văn Dũng (KS NLS, Dr. Phil England) dạy Chăn nuôi gia cầm, Võ Ái Quấc (KS NLS, M.Sc., Los Baños, Philippines) dạy Dinh dưỡng Gia súc, Châu Bá Lộc (KS NLS, DVM, Chulalongkorn) dạy Sinh lý động vật. Ban giảng huấn còn có Phạm Ngọc Hiệp (Ph.D. Philippines) dạy Di truyền Động vật, Trần Thị Túy Hoa (KS Ngư nghiệp NLS) và Trần Thị Thu Hương (B.Sc. Thủy sản, New Zealand) dạy Ngư nghiệp và thực tập Sinh lý Gia súc, Võ Ngọc Kiệm, Trần Lam Huyến, Vũ Ngọc Ruẫn. Đầu ngành vẫn là giáo sư Nguyễn Viết Trương, tiến sĩ Thổ nhưỡng chuyên ngành Đồng cỏ, làm quản lý nhiều hơn đi dạy. Thầy Trần Minh Tâm (KS NLS) dạy Gieo tinh Nhân tạo và Giống gia súc. Tại bộ môn có cả Dr. Tanaka, một chuyên gia Nhật ở làm việc.
Khóa đầu tiên ít người, các thầy “chăm sóc” kỹ và lớp Súc khoa K6 học rất vui. Phòng học được trang bị cả tủ lạnh cho sinh viên uống nước. Mổ gà, vịt xong là thầy trò nấu cháo xử luôn. Học kỳ nào cũng đi dã ngoại, tham quan, thực tập ngoài trường. Heo đẻ thì cả lớp bu vô đở đẻ. Thầy làm nghiên cứu thì lôi cả lớp tham gia. Chưa đầy năm, tháng 3/1975, chiến tranh ác liệt, nhà trường kết thúc học kỳ sớm và cho sinh viên nghỉ hè.
Sau biến cố 4/1975. Đại Học Cần Thơ được bàn giao cho Chính quyền Cách mạng tổ chức lại. Viện Đại Học Cần Thơ được đổi tên thành Trường Đại Học Cần Thơ, trực thuộc Bộ Đại Học và Trung học Chuyên nghiệp, sau này nhập chung với Bộ Giáo dục thành Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhiều ngành bị giải tán nhưng Nông nghiệp thì phát triển nhanh chóng. Thầy Nguyễn Văn Nhương, tiến sĩ chăn nuôi từ Rumani về làm Trưởng Bộ môn, miền Bắc chi viện thêm nhiều cán bộ khác tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp I Hà Nội như các thầy Phạm Thanh Nhàn, cô Trần Thị Hồng Minh, cô Ngô Thị Hợp, các thầy Phạm Hữu Tam, Đỗ Trung Giã, Nguyễn Dương Bảo, Nguyễn Văn Dương, Lê Huy Kim và những người tốt nghiệp ở nước ngoài như cô Lã Thị Thu Minh (Hungary), thầy Trần Tinh Huy (Ukraina). Ngành học Súc khoa được đổi tên thành Chăn nuôi-Thú y, sinh viên các ngành khác chuyển sang học đông hơn. Lớp Súc khoa 6 được đổi lại thành lớp Chăn nuôi Chuyển tiếp 1 (CN.CT1) và nhận thêm 5 sinh viên chuyển trường từ Đại học Hòa Hảo (An Giang), 1 SV từ Đại Học Nông nghiệp II Hà Bắc, sau đó 1 người bỏ học và số sinh viên lớp còn lại 22 người. Đây là lớp sinh viên đầu tiên của ngành Chăn nuôi - Thú y. Tiếp theo đó, Súc Khoa K7 (trúng tuyển vào Đại học Cần Thơ năm 1974) tiếp nhận thêm nhiều sinh viên từ các ngành khác và đổi tên thành CN.CT2 với 120 SV được chia thành 2 lớp A và B.
Ngành Chăn nuôi-Thú Y bắt đầu phát triển rất nhanh, các khóa tuyển sinh từ năm 1976 được ký hiệu lại từ đầu là lớp Chăn nuôi-Thú y K1 và đến năm nay (2014) chuẩn bị tuyển sinh đầu vào K40. Sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng Kỹ sư Chăn nuôi – Thú y.
Chưa đầy 10 năm sau 1975 ngành Chăn nuôi - Thú y Đại Học Cần Thơ chuyển mình và phát triển nhanh chóng. Từ một Bộ môn trong Khoa Nông nghiệp, chuyển sang khoa Chăn nuôi-Thủy sản-Chế biến, rồi khoa Chăn nuôi-Thủy sản. Đến năm 1978, Khoa Chăn Nuôi -Thú Y chính thức được thành lập. Ông Nguyễn Kim Quang (Tư Quang), Phó Hiệu trưởng kiêm nhiệm Trưởng khoa. Các cơ sở từ khu I được dời về khu II trên khuôn viên của khoa Công nghệ và khoa Thủy sản ngày nay. Đó là thời kỳ phát triển về lượng của ngành Chăn nuôi-Thú y với 5 Bộ môn và nhiều cơ sở thực nghiệm như Xưởng Thức ăn, Trại Heo-Gà-Trâu-Bò-Vịt-Ngổng-Thỏ-Dê, Phòng Ấp trứng, Đồng cỏ. Nhờ có Bệnh xá và Trại Chăn nuôi tọa lạc ngay tại Trường mà Thầy Trò ngành CNTY có điều kiện thực hành-thí nghiệm để nâng cao tay nghề mọi lúc mọi nơi. “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một sờ”, dù tài liệu học tập và tham khảo rất khan hiếm nhưng sinh viên thời bấy giờ và vài khóa về sau có trình độ chuyên môn khá tốt, học đâu chắc đấy, làm được nhiều việc đại sự sau khi tốt nghiệp, rồi quay về Trường cùng Thầy Cô dìu dắt các em trên con đường nghề nghiệp của mình. Hệ thống Trại bắt đầu phát huy thế mạnh của mình. Ngoài việc phục cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, hệ thống giống của Trại cũng tham gia các dự án sản xuất cho cả đồng bằng sông Cửu Long, cũng như cải thiện đời sống cán bộ trong Trường, đặc biệt trong các dịp Lễ - Tết…
Đến cuối năm 1978 thì thầy Tạ An Bình, thực tập sinh về từ Liên bang Nam Tư, cán bộ của Viện Chăn nuôi về đảm nhiệm chức vụ Trưởng khoa. Một sự đột phá và cải tổ bắt đầu. Bảy kỹ sư tốt nghiệp từ lớp CN.CT1 được giữ lại khoa vào tháng 11/1978. Đến năm 1979, ngành giữ lại thêm 15 kỹ sư từ lớp CN.CT2 để làm cán bộ, kết thúc việc tăng cường cán bộ từ miền Bắc, đồng thời giảm dần việc mời giảng từ các viện, trường ở thành phố Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu và giảng dạy thay đổi dần và hình thành một phong cách mới, “phong cách Cần Thơ”. Sinh viên thực tập tại các cơ sở theo kiểu cùng ăn-cùng ở-cùng làm, thầy trò nghiên cứu gắn liền với sản xuất hàng hóa. Thịt, sữa, trứng bán hàng ngày cho cán bộ, nhân viên và người chăn nuôi. Bây giờ hàng hóa dư thừa thì chuyện đại học bán thịt sữa là bình thường. Nhưng thời đó gạo-thịt bán theo tem phiếu, sữa chỉ bán cho trẻ con mất sữa mẹ thì quả thật là một kỳ công. Ngoài việc học, nếu tỉnh có yêu cầu thì thầy trò lại lùi lịch học đi tiêm phòng, đi chống dịch bệnh, kể cả chống rầy nâu. Chân đất lội đồng, lội ruộng, bữa đói, bữa no mà vui, mà học được nhiều điều. Tốt nghiệp xong là sẵn sàng đeo ba lô đi cải tạo nông nghiệp, quy hoạch, đi huyện, làm kỹ thuật trại, làm khuyến nông. Nhiều đại gia, quan chức ngày nay được đào tạo trong thời gian ấy.
Bên cạnh đào tạo hệ chính qui, ngành Chăn nuôi-Thú y bắt đầu đào tạo hệ tại chức cho các Trường liên tỉnh Cửu Long-Đồng Tháp-Hậu Giang-Minh Hải-An Giang-Kiên Giang-Trà Vinh-Sóc Trăng-Bạc Liêu. Sau này là các Trung tâm Tại chức hay các Trường Cao đẳng Cộng đồng của các tỉnh được hình thành.
Thầy Tạ An Bình chuyển công tác và Thầy Châu Bá Lộc làm Trưởng Khoa Chăn nuôi – Thú y (1983-1996) cùng với Thầy Võ Ái Quấc, Thầy Trịnh Hữu Phước và Thầy Nguyễn Văn Dương làm Phó Trưởng Khoa. Khoa Chăn nuôi -Thú y bấy giờ có 05 bộ môn và 01 trại Chăn nuôi thực nghiệm.
Năm đánh dấu một bước đột phá lớn ở Trường Đại học Cần Thơ là được Bộ trao quyết định cho phép đào tạo bậc thạc sĩ đầu tiên với 3 chuyên ngành: Trồng trọt, Chăn nuôi và Thú Y. Tính đến nay, ngành Chăn nuôi – Thú y đã đạo tạo được 21 khóa cao học.
Để tiếp nhận cơ sở vật chất từ nguồn viện trợ của JICA (Nhật Bản), Khoa Nông nghiệp được tái lập trên cơ sở sáp nhập các Khoa Trồng Trọt, Khoa Chăn nuôi-Thú Y, Khoa Công nghệ Thực phẩm và Khoa Thủy sản. Trên nền tảng này, Khoa Chăn nuôi-Thú y được cấu trúc lại thành Bộ môn Chăn nuôi (từ các Bộ môn Giống và Kỹ thuật nuôi, Cơ thể và Sinh lý (bao gồm cả Ngoại Khoa), Dinh Dưỡng và Thức ăn Gia súc, và Trại Chăn nuôi Thực nghiệm) và Bộ môn Thú y (từ bộ môn Vi trùng và Bệnh Truyền Nhiễm, Bệnh Ký sinh Nội Khoa và Thú y cơ sở) trực thuộc Khoa Nông nghiệp. Trưởng Bộ môn Chăn nuôi và Bộ môn Thú y đầu tiên là TS.Võ Văn Sơn và PGS. TS. Châu Bá Lộc.
Tức là năm năm sau khi được phép mở đào tạo thạc sĩ, ngành nhận thêm nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ chuyên ngành Chăn nuôi.
Bộ môn Thú y được phép mở ngành đào tạo Bác sĩ (BSTY), với chương trình đào tạo là 5 năm. Khóa BSTY đầu tiên là K27 (2001-2006).
Khoa Nông nghiệp đổi tên thành Khoa Nông Nghiệp và Sinh học Ứng dụng, bộ phận Thủy Sản tách khỏi Khoa Nông Nghiệp và hình thành Khoa Thủy Sản, hai bộ môn mới được hình thành là Sinh lý sinh hóa và Di truyền Giống Nông Nghiệp (có 4 cán bộ Bộ môn Chăn nuôi được biệt phái qua bộ môn này).
Bộ môn Di truyền Giống Nông nghiệp đã mở chương trình đào tạo kỹ sư Chăn nuôi chuyên ngành Công nghệ Giống Vật nuôi. Năm 2007, Trại Chăn nuôi được chuyên từ khu II về khu Hòa An (Phụng Hiệp, Hậu Giang). Đến năm 2009, một cán bộ từ Bộ môn Di truyền Giống được điều chuyển về Bộ môn Chăn nuôi giữ chức vụ Phó Trưởng Bộ môn kiêm Trưởng Trại Chăn nuôi Thực nghiệm Hòa An.
Bộ môn Chăn nuôi được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép mở lớp cao học quốc tế đào tạo chuyên ngành Chăn nuôi và Môi trường (tiếng Anh). Đến năm 2012 có 11 học viên (Việt Nam, Lào và Campuchia) tốt nghiệp. Cũng trong năm này, Bộ môn Thú y được phép tuyển sinh chuyên ngành Dược Thú Y. Tính đến nay ngành Chăn nuôi – Thú y đang đào tạo 4 chuyên ngành: Chăn nuôi - Thú y, Công nghệ Giống Vật nuôi (ngành Chăn nuôi), Thú y và Dược Thú y (ngành Thú Y).
Trại Chăn nuôi Thực nghiệm Hòa An được bàn giao lại cho Khoa Phát triển Nông thôn. Đến nay hoạt động của Trại dường như không còn tốt nữa. Ngành CNTY cũng không còn quản lý Trại, “Thầy dạy chay-Trò học vẹt”, sinh viên muốn giỏi thì phải nhờ trang trại tư nhân/ công ty bố trí thực tập. Nếu gặp dịch thì đành chịu thiệt thòi vì không được các trại tiếp nhận. Chất lượng đào tạo ngày nay có phần đi xuống mặc dù trang thiết bị, cơ sở vật chất được trang bị tốt hơn, Thầy Cô được đào tạo bài bản hơn.
Trên cơ sở hội nhập và phát triển, hai cán bộ biệt phái thuộc Bộ môn Di truyền Giống Nông Nghiệp trở về Bộ môn Chăn nuôi và một trở về Bộ môn Thú y. Cũng trong năm này, ngành Thú y được phép tuyển nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành Bệnh lý và Chữa bệnh Vật nuôi.
LÃNH ĐẠO NGÀNH CHĂN NUÔI – THÚ Y QUA CÁC THỜI KỲ
Trước 1975: các Trưởng Ban Súc khoa là Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thượng Chánh, Châu Văn Dũng, Võ Ái Quấc, Châu Bá Lộc.
Sau 1975: (1) Trưởng Khoa Chăn nuôi-Thú y: Nguyễn Kim Quang (1978), Tạ An Bình (1978-1983), Châu Bá Lộc (1983-1996), (2)Trưởng Bộ môn Chăn nuôi: Võ Văn Sơn (1996-2002), Nguyễn Minh Thông (2002-2004), Võ Văn Sơn (2004-2006), Nguyễn Văn Thu (2006-2012), Đỗ Võ Anh Khoa (từ 2012- nay), (3) Trưởng Bộ môn Thú y: Châu Bá Lộc (1996 -2002), Trần Thị Phận (2002-2007), Lưu Hữu Mãnh (2007- nay).
MỘT SỐ CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
Trong những năm qua, ngành Chăn nuôi-Thú y đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực như (1) Heo bông Ba Xuyên, (2) Bệnh Gumboro trên gà, (3) Gà Tàu Vàng, (4) Vịt chạy đồng, (5) Trâu nội, (6) Cây thức ăn gia súc, (7) Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các nguồn thức ăn, (8) Hệ thống đánh giá thức ăn, (9) Ô nhiễm môi trường từ sản xuất chăn nuôi, (10) Khu hệ ký sinh trùng trên gia súc gia cầm, (11) Cây xuân hoa, (12) Bệnh viêm não Nhật Bản, (13) Bệnh PRRS và dịch tả trên heo, (14) Các bệnh trên động vật và vệ sinh an toàn thực tập…
Chương trình nâng cao năng lực nghiên cứu và giảng dạy của JICA (Japan International Cooperation Agency, Nhật Bản).
Chương trình Heifer Việt Nam (1987-2003) là tổ chức phi chính phủ (NGO) hợp tác với Khoa Chăn nuôi - Thú y trường Đại học Cần Thơ để tăng cường cải tiến công tác chăn nuôi ở địa phương. Giám đốc Chương trình Heifer Việt Nam đầu tiên là PGS. TS. Châu Bá Lộc. Từ năm 1992 – 2003, Heifer đã triển khai các dự án nuôi heo, gia cầm, dê và bò ở 24 tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng, Miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Thông qua chương trình Heifer, có nhiều cán bộ được cử đi đào tạo ngắn hạn ở các nước như Hoa Kỳ, Thái Lan, Philippines,…
Chương trình SIDA-Sarec “Livestock Research for Rural Development” của Thụy Điển được triển khai vào những năm 1989. Đây là một chương trình nghiên cứu về chăn nuôi gồm có 4 đơn vị tham gia là Viện chăn nuôi, Trường Đại học Nông nghiệp Huế, Đại học Nông Lâm Thành phố HCM và Đại học Cần Thơ. Thông qua chương trình này có 9 cán bộ được đào thạc sĩ, 6 cán bộ đào tạo tiến sĩ và nhiều đề tài nghiên cứu về hệ thống thức ăn dinh dưỡng và hệ thống chăn nuôi được thực hiện.
Chương trình hợp tác nghiên cứu với Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Nhật Bản JIRCAS (1) “Development of New Technologies and Their Practice for Sustainable Farming Systems in the Mekong Delta” (2001-2004) và (2) Dự án nghiên cứu làm giảm khí thải nhà kính trong chăn nuôi gia súc nhai lại (2012-nay).
Chương trình hợp tác đào tạo và nghiên cứu với trường Đại học Nông nghiệp và Kỹ thuật Tokyo Nhật Bản. Chương trình này đã đào tạo được 3 tiến sĩ và trao đổi nhiều sinh viên của hai trường.
Tham gia Chương trình Phát triển nông nghiệp tỉnh Chămpasac, CHDCND Lào.
Chương trình hợp tác với SEARCA (Philippines) và chương trình trao đổi sinh viên quốc tế với Đại học Ghent (Vương quốc Bỉ).
|
|
|
|