Hoạch định phát triển Nông Nghiệp Miền Nam VN. Phần 2


Lời bàn TDH: Bài này GS Thái Công Tụng viết năm 1973, cách đây 47 năm. Là một nhà khoa học có tầm nhìn (viễn kiến) rất xa trong việc hoạch định kế sách phát triển Nông Nghiệp cho phần đất Miền Nam VN (phía nam Vĩ tuyến 17). Kẻ hậu sinh thấy tầm nhìn của GS Tụng nay đã thành hiện thực dầu thể chế chính trị có thay đổi. Mời thân hửu đọc lại bài viết cách đây 47 năm.                                                                                                                                                                                                           

GS. Thái Công Tụng - Hoạch định và phát triển nông nghiệp dựa vào các vùng thiên nhiên ở Nam Việt Nam (Tập san Sử Địa, tập 25, 1/3/1973)



Phần 2. 

B. Miền Cao Nguyên Trung Việt
 
Dãy Trường Sơn chạy dài từ Bắc đến Nam phân chia vùng Cao Nguyên Trung Phần và Trung Phần. Dãy núi nầy rất dốc về phía Đông vì gần biển, còn về phía Tây nó thoai thoải để tạo nên nhiều cao nguyên như Pleiku, Cao Nguyên Darlac, Cao Nguyên Langbian, Cao Nguyên Quảng Đức và Lâm Đồng. Ngoài những cao nguyên còn có những đồng bằng Sông Ba ở Cheo Reo, đồng bằng Lạc Thiện ở Ban Mê Thuột và đồng bằng Sông Bla ở Kontum là 3 cái lớn nhất.
 
1) Cao Nguyên Kontum:
 
Cao Nguyên Kontum nằm phía Bắc Cao Nguyên Pleiku và cao độ quãng 400m.
-  2 dòng sông chính là sông Dak Poko chảy theo hướng Bắc Nam để rồi chảy nhập vào sông Sesan qua Stung Treng ở Cambodia.
- Sông Bla chảy hướng Đông Tây qua thành phố Kontum và nhập vào sông Dak Poko. Kontum là một vùng ở cao mgụyên mà người Việt Nam đến định cư từ lâu nhất (từ đời vua Tự Đức). Đồng bằng sông Pla ở Kontum có đất phù sa có thể trồng lúa, bắp, đậu phụng hoặc cây ăn trái trên đất cao ít bị lụt.
Ngoài đất phù sa, tại Cao Nguyên Kontum có đất podzalic vàng đỏ như tại vùng DakTo, Tri Đạo, Tân Cảnh có thể khai khẩn để trồng trọt hoa màu. Các loại đất này tương đối không gồ ghề và nằm dọc 2 bên đường từ Kontum đi DakTo và từ DakTo qua biên giới Wit Lao,
Ngoài ra phần lớn đất đai còn lại, chỗ là núi non trùng trùng điệp điệp, nhất là phía Bắc Đông Bắc là dãy núi Trường Sơn ngăn cách vùng Cao Nguyên với đồng bằng Nam-Tín-Ngãi.
 
 
2) Cao Nguyên Pleiku:
 
Có cao-độ quãng 800m xung-quanh tỉnh lỵ Pleiku và hạ thấp xuống 400m ở phía Tây (vùng quận Lệ Thanh gần biên giới Cambodia). Cao nguyên nầy hiện còn một vài di tích hỏa diệm sơn cũ như núi Chudron ở phía Nam Pleiku chừng 12km. Ngoài các núi trên, có cả những hồ miệng hỏa diệm sơn (lacs de cratère) như hồ La Bang và Tonueng Prong và các trũng đất thấp hình hơi tròn mà người GiaRao gọi là (Donau).
Cao nguyên nầy thông thương với đồng bằng Bình Định nhờ một vài đèo như đèo Mang Yang 850m và đèo An Khê, và với đồng bằng Tuy Hòa nhờ thung lũng Cheo Reo.
 
Cao-Nguyên Pleiku gồm những loại đất đỏ có mức phì nhiêu kém hơn những loại đất đỏ Cao Nguyên Banmethuot vì dòng sông Ba chảy gần đó đã đào sâu địa diện nên sự trực di các cation như Ca, Mg rất dễ dàng, pH thấp quãng 4, 5.
Thảo mộc là một đồng cỏ thấp vì nạn làm rầy quá nhiều khiến thảo mộc không kịp tái tạo. Đất đỏ Cao Nguyên Pleiku, đặc biệt là vùng xung quanh thị xã Pleiku xấu hơn đất đỏ ở phía Tây Cao Nguyên này gần biên giới Việt-Miên.
 
Đất đỏ phía Tây Cao Nguyên Pleiku (vùng quận Lệ Thanh) là vùng có nhiều địa điểm dinh điền xưa kia, sau này vì tình hình an ninh nên bị bỏ phế. Khi hòa bình vãn hồi, vùng này có thể phục hồi lại nhanh chóng bằng cách định cư lập ấp vì đất rất tốt, có thể trồng trà, cây ăn trái hoặc các hoa màu như thuốc lá, khoai lang. Còn vùng quanh thị xã Pleiku cũng có thể trồng các hoa màu như trên, nhưng phải bón phân chuồng và phân hóa học nhiều hơn.
 
Cao Nguyên Pleiku có đất đai ít màu mỡ hơn đất Cao Nguyên Lâm Đồng vì mùa nắng ở vùng Pleiku gắt hơn. Tuy nhiên với phân hóa học vẫn có thể trồng trọt được nhiều loại hoa màu nhưng nên trồng cây đa niên như cây ăn trái, cây trà vì trồng hoa màu hằng niên, đất dễ bị soi mòn. Trồng trà thì cần lựa vùng nào có thể xây các đập nhỏ trên suối để có thể bơm nước vào mùa nắng.
 
3) Cao Nguyên An Khê
 
Cao nguyên này có cao độ quãng 450m và một cách tổng quát, đó là một vùng đất xung quanh An Khê nằm giữa 2 đèo: đèo Mang ở phía Tây, đèo An Khê (tức đèo Mang Yang) phía Đông, và phía Bắc là vùng Kannack cách An Khê chừng vài chục cây số và phía Nam giáp với thung lũng sông Ba ở Cheo Reo.
Cao nguyên này có nhiều đất đai đã được người Việt Nam canh tác từ lâu thành ruộng lúa hoặc vườn cây ăn trái. Về phía Tây cao nguyên nầy là vùng đất đỏ của Cao Nguyên Pleiku.
Sông Ba chảy qua Cao Nguyên An Khê theo hướng Bắc-Nam và sau khi đến Cheo Reo thì chảy ra Nam Hải. Dòng sông Ba ở ngay An Khê lởm-chởm những đá.
Tuy vùng An Khê này thuộc tỉnh Bình Định về phương diện hành chánh, nhưng căn cứ vào hình thể và cao độ thì cao nguyên này thuộc vùng Cao Nguyên Trung Phần chứ không thể cho vào đồng bằng duyên hải Trung Việt.
 
Mùa mưa ở Cao Nguyên An-Khê trễ hơn ở Pleiku nhưng sớm hơn ở Qui Nhơn. Đất đai một phần là đất phù sa của Sông Ba, nhưng phần lớn thuộc nhóm “đất nâu không vôi” có pH cao, nhiều dưỡng liệu.
Đất đai khả canh tại đây có thể gặp đọc đường từ An Khê đi Kannack phía Bắc An Khê. Đất thích hợp với thuốc lá, hoa màu phụ như bắp, đậu phụng, đậu nành hoặc cây ăn trái như cam quít xoài, nói khác đi, có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp.
 
4) Cao Nguyên Darlac:
 
Cao Nguyên nầy có cao độ chừng 400m và địa diện tương đối ít gồ ghề hơn vùng Pleiku. Cao Nguyên Darlac có những phần đất có cao độ lối 800m về phía Đông Bắc, cần chỗ tiếp giáp với dãy núi Chu Dịu và cao độ hạ xuống từ từ về phía Nam và phía Tây, 300m phía Tây Nam ở Bandon, 400m phía nam đồng bằng Lạc Thiện. Cao Nguyên Darlac có nhiều dòng suối chảy về sông Srépok, sông Krong Anna phía Nam. Và sông Ba (Cheo-Reo) phía Đông. Tuy nhiên phần lớn suối đều chảy về phía Nam và phía Đông theo đúng độ dốc tổng quát của vùng nầy.
Một cách tổng quát, về phía Tây Cao Nguyên Darlac, sông suối chảy theo hướng Đông Tây cho nên ta có thể thấy nhiều ngọn đồi rất dài xếp đặt song song theo chiều Đông Tây, còn về phía Đông Cao Nguyên có sông Krong Buk là sông lớn chạy theo hướng Bắc Nam.
 
Cao-Nguyên Darlac gồm những loại đất đỏ hay đất đen do đá huyền vũ tạo nên, một vài đồn điền cao su như CHPI, đồn điền Meval, đồn điền Buôn Hô đã được thiết lập tại đây từ lâu. Mật độ các làng Thượng khá lớn ở Cao Nguyên Banmêthuột và vào các năm 1960-1962, cũng có nhiều địa điểm dinh điền như Đạt Hiếu, Quảng Nhiêu, Buôn Hô và các địa điểm dọc quốc lộ Banmêthuột đi Nha Trang,
 
Đất đai cao nguyên này thích hợp với cao su, café bơ, xoài. Mùa nắng là một cưỡng chế trong việc phát triển nông nghiệp vì thủy cấp cao nguyên này rất sâu và các suối thường ít hoặc có một lưu vực nhỏ nên không đủ nước tưới cho hoa màu vào mùa nắng.
Đất đỏ cũng có thể trồng hoa màu phụ nhưng phải bón phân hóa học rất nhiều vì các chất dưỡng liệu ở các lớp mặt dễ bị trôi xuống sâu mà hoa màu phụ thì chỉ có một hệ thống rễ cạn nên không thể hút các dưỡng liệu ở dưới sâu được.
 
5) Cao Nguyên M’ Drak (Khánh Dương)
 
Cao nguyên này tuy ở phía Đông Cao Nguyên Darlac, nhưng có nhiều sắc thái độc đáo khiến nó khác hẳn với vùng Darlac.
Về phía Bắc Cao Nguyên M'Drak là đồng bằng sông Ba, phía Nam nó có một dãy núi ngăn cách với đồng bằng sông Krong Pach và Lạc Thiện. Phía Đông, cao Nguyên M'Drak ngự trị một cách rõ rệt trên đồng bằng Ninh Hòa bằng những núi rất dốc. Cao nguyên này gồm nhiều loại đá hoa cương, đá mica-schiste.
 
Ngoài ra cũng có những loại đá basalte tạo ra đất đỏ, nhất là dọc trên đường từ M'Drak đi Tuy Bình về phía Bắc, tuy nhiên diện tích đất đỏ ở đây không rộng mà cũng không liên tục như ở vùng Banmêthuột. Đất phù sa dưới những chỗ trũng, đất tụ ở chân đồi, đất đỏ, đất podzolic làm cho vùng này tương đối có nhiều nét khác biệt hẳn với sự đồng chất của Cao Nguyên Darlac.
Tuy Cao Nguyên M'Dark này, về phương-diện hành chánh thuộc tỉnh Khánh Hòa, nhưng hình thể và cao độ buộc ta phải cho vào vùng Cao Nguyên Trung Phần chứ không thể cho vào vùng duyên hải Trung Việt được.
 
Đất đai ở đây có địa diện tương đối gồ ghề và đây đó có thể gặp nhiều đá hoa cương nổi trên mặt.
 
Thảo mộc thiên nhiên là một đồng cỏ khiến trước đây quãng 1958 đã có một trại nuôi bò thịt nhưng sau này vì lý do an ninh, trại này giải tán. Vùng này có nhiều triển vọng phát triển chăn nuôi bò thịt vì có nhiều đồng cỏ xanh quanh năm
 
6) Cao Nguyên Quảng Đức (tức vùng Ba Biên Giới)
 
Cao nguyên này có địa diện gồ ghề hơn vùng Banmêthuột. Nhiều đồi núi rất dốc ngăn cách các thung lũng hẹp. Các thung lũng này nằm sâu hơn các vùng đất bằng phẳng trên cao đến vài trăm mét. Sự xoi mòn ở đây rất mạnh. Độ đốc các triền đồi, khá lớn (trên 150) nên trên triền đồi, đất đai tương đối trẻ hơn là đất trên cao hay ở những nơi bằng phẳng.
Thảo mộc thiên nhiên các vùng đất cao hầu như không có, chỉ là một đồng cỏ lưa thưa (đồi trọc) và đất đai cũng nhiều sỏi latêrít gần lớp mặt. Trái lại, ở dưới thung lũng, thảo mộc là một rừng dày. Những đồi trọc như trên có nhiều ở vùng Ba Biên Giới và còn lan rộng mãi đến vùng Buyam Map ở phía Bắc Phước Long.
 
Đất ở cao nguyên này phần lớn là latosol đỏ có nhiều rừng dày. Vì địa thế dốc nhiều nên sự xoi mòn đất đai cũng mạnh nếu trồng cây hằng niên. Sau này, nếu muốn khuếch trương ngành sản xuất trà, café thì có lẽ ở Việt Nam, cao nguyên này là thuận lợi nhất vì cao độ quãng 800m, mưa nhiều là các điều kiện sinh môi rất thuận tiện cho việc phát triển 2 loại cây đa niên nói trên.
 
Tại vùng Tây Cao Nguyên Quảng Đức gần biên giới Việt Miên có nhiều đồng cỏ khắp trên những đồi trọc không cây cối. Diện tích các đồi trọc này quảng 20.000 - 25.000 ha, cổ thể dùng vào việc chăn nuôi bò thịt hoặc bò sữa.
 
7) Cao Nguyên Lâm Đồng:
 
Cao nguyên này chiếm các vùng đất đai ở Blao và Di Linh. Những phần đất phẳng của cao nguyên này thường khá rộng, rộng hơn vùng Ba Biên Giới, và thung lũng tương đối nằm rất sâu so với vùng đất trên cao. Các thung lũng thường có hình U, nghĩa là các đáy thung lũng, gồm nhiều phù sa men suối thường rộng. Tuy nhiên cũng có một vài nơi thung lũng rất hẹp có hình chữ V ngăn cách bởi các triền dốc lớn.
Đất đai gồm phần lớn đất latosol nâu cứng ở một vùng vũ lượng cao nên sự phát triển trồng trà rất thích hợp.
Diện tích trà ở cao nguyên hiện nay quãng 10.000 ha và sau này cần trùng tu lại các vườn trà vì qua nhiều năm chiến cuộc, trà bị bỏ phế không ai chăm sóc, ngoài ra phải thay thế trà hột bằng trà cành để năng xuất trà cao hơn. Cũng có thể xử dụng đất đai vào việc phát triển cây ăn trái như bơ, sầu riêng, chôm chôm, nhất là ở các vùng ven suối.
 
8) Cao Nguyên Liên Khàng và Thung Lũng Dran Finnom
 
Vùng Cao Nguyên Liên Khàng có gồm có nhiều đất đỏ do đá basalte sinh ra và nhiều trũng nằm ở một vị trí không sâu lắm đối với vùng đất bình nguyên. Trái lại, các thung lũng của các sông chính như sông Đa Dung, Đa Nhim thường nằm rất sâu so với phần đất trên cao. Thung lũng sông Đa Nhim rất hẹp về phía thượng lưu vùng Dran, trở thành rộng khi sông này chảy vào trũng lớn Dran Finnom là một làng ở gần Liên Khàng.
Về phía Tây Nam vùng Cao Nguyên Liên Khàng là vùng Cao Nguyên Cagne mà thảo mộc rất thưa thớt.
 
Cao Nguyên Liên Khàng bao gồm các phần đất ở cao độ 800m và có điểm trọng tâm ở Tùng Nghĩa là một xã gồm nhiều đồng bào Thái Nùng di cư từ Bắc Việt vào Nam năm 1945. Có thể nói cao nguyên này phía Nam giáp với vùng Di Linh, phía Đông là vùng giới hạn ở quận Đơn Dương gần đập Đa-Nhim, phía Đông là vùng giới hạn với đồng bằng Lạc Thiện, về phía Bắc là chân đèo Prenn. Đất đai gồm nhiều loại như đất phù sa dọc theo sông Đa Nhim ở thung lũng giữa Đơn Dương và Phú Hội, đất đỏ ở Liên Khàng - Tùng Nghĩa và đất thấp đen ở trũng.
Tất cả các loại đất trên đều có mức phì nhiêu cao và do đổ có tính cách hướng nông:
       lúa và rau cải trên đất phù sa.
       cây ăn trái trên đất đỏ (mận, bơ, chuối, đu đủ, thơm)
Ở Cao Nguyên Cagne cách phi trường Liên Khàng chừng vài chục cây số phía Nam, có nhiều đồng cỏ thiên nhiên có thể xử dụng vào việc chăn nuội.
 
9)  Cao Nguyên Dalat:
 
Ngự trị trên Cao Nguyên Liên Khàng là Cao Nguyên Dalat nằm ở một cao độ trên 1.200m. Vùng này gồm nhiều đồi thoai thoải ngăn cách các thung lũng hẹp. Thảo mộc thiên nhiên là một rừng thông 3 lá.
 
Đất-đai có 2 loại đất chính: đất podzolic vàng đỏ ở trên các đồi do sự hủy hoại của đá phiến thạch có một trắc diện sâu, đất hữu cơ ở dưới các thung lũng.
Ngoài ra cũng có thể kể đất đỏ (vùng Cam Ly) nhưng diện tích quá ít.
 
Hầu hết các nông trại ở quanh thị xã Dalat đều trồng rau cải và loại rau được trồng nhiều nhất hiện nay là cải bắp. Sự xử dụng đất đai có tính cách rất thâm canh: phân hữu cơ, phân vô cơ, thuốc sát trùng, sát khuẩn và máy bơm nước được xử dụng tích cực.
Ngoài rau cải, cây ăn trái ôn đới như: mận, hồng cũng có thể trồng được tại đây.
Tại Cao-Nguyên Dalat, có thể lập thêm nhiều đập nước để trữ nước, vừa nuôi cá, vừa dùn g để bơm nước tưới vào mùa nắng. Các vùng thượng lưu các đập nước thì đừng nên khai phá rừng vì như vậy hồ nước chẳng bao lâu bị bùn lắng tụ làm hồ cạn như kinh nghiệm hồ Xuân Hương hiện nay.
 
10) Thung lũng sông Ba (Phú Bổn)
 
Đồng bằng thung lũng sông Ba có cao độ quãng 160m, và là một thung lũng nằm xen giữa vùng Ca -Nguyên An Khê phía Bắc, vùng Cao Nguyên Pleiku phía Tây, vùng dãy núi Chu Dju phía Nam, Thung lũng này chạy dài theo hướng Tây Bắc đến Đông Nam. Đồng bằng nầy khá rộng về phía Bắc Cheo Reo, nhất là trong khoảng giới hạn bởi sông Ayunh, sông Ba và sông Ia Pihao
 
Thung lũng Sông Ba có hai phong cảnh hình thể chính:
       Đồng bằng phù-sa cận-đại nằm dọc theo các sông Ba và sông Ayunh. Trong khi dòng sông Ba chảy rất thẳng vì lưu lượng nước nhiều hơn thì dòng sông Ayunh có nhiều khúc quẹo (méandre) uốn quanh co.
       Đồng bằng phù sa cổ sinh nằm trên bậc thềm của các dòng sông nói trên. Đất đai ở đây nghèo nàn hơn và nhiều cát, có rừng thưa bao phủ.
 
Trong các suối chảy vào Sông Ba và sông Ayunh có các suối:
       Ba Pihao, phụ lưu của sông Ba
       Ea RơBal, phụ lưu của sông Ba
       Ea Sol, phụ-lưu của sông Ayunh
       Ea Yao, phụ lưu của sông Ayunh
là có nước quanh năm, còn các suối khác thì cạn về mùa nắng hoặc dòng suối đầy những cát.
 
Khí hậu ở đây khô khan vì vũ lượng chỉ có 1.300m hằng năm. Vì vũ lượng khô khan, nên đất-đai có pH cao, nhiều Ca và Mg. pH đất quảng 6,5. Đất-đai gồm 3 loại đất chính :
       Đất phù sa thịt pha sét do sông Ba và các phụ lưu Ea Aytunh, Ea RơBal, Ea Pihao bồi đắp.
       Đất régur có nhiều sét trên các phù sa cổ sinh. Đất này cũng có pH cao, nhưng vì nhiều sét nên đất dính và dẻo vì mùa mưa và cứng chắc vào trời nắng.
       Đất podzolic xám nhiều cát, khô khan, có thủy cấp khá sâu.
 
Thung lũng sông Ba cần nhất là dẫn thủy thì mới có thể phát triển nông sản được vì mùa nắng gắt, mà mùa mưa bảo lại dễ bị lụt vì là một thung lũng nên nước dòng sông dâng lên, nước trên núi chảy xuống. Tuy nhiên, các hoa màu đây có thể thích-hợp:
       Bắp, đậu phụng, đậu nành, trên các đất phù sa của sông Ba, sông Ba Ayunh.
       Bông vải có thể trồng được nhưng phải là bông vải trồng về mùa nắng trên đất có thể dẫn thủy được, vì trồng mùa mưa dễ lụt.
       Thuốc lá đen hay thuốc lá nâu Virginie
       Lúa trên đất régur hoặc mía
 
Ngoài các hoa màu, đồng bằng Phú Bổn là nơi có thể khuếch trương chăn nuôi theo lối dã thảo (ranch) nghĩa là thả trâu bò ăn trong những đồng cỏ, trên một diện tích quy mô vì ở đây có nhiều rừng thưa có cỏ hòa bản mọc dưới rừng.
 
Chỉ có 2 địa điểm dinh điền là Quý Đức và Tín Lập có người Việt-Nam ở, còn hầu hết là đồng bào Thượng. Cần nghiên cứu lập thêm nhiều đập nước ở vùng cao để nước có thể xuống các phần đất thấp bằng trọng lực thì triển vọng phát triển nông nghiệp mới lớn vì đồng bằng này quá khô-khan.
 
11) Đồng-Bằng Lạc Thiện
 
Phía Đông Nam vùng Banmethuot là đồng bằng Lạc Thiện gồm nhiều phù sa men sông Krong Pach, Krong Anna và phù-sa ngập nước.
Ngoài ra ở những chỗ đất trũng có đất than bùn nhiều chất htti-co.
Ở phía Nam đồng bằng Lạc Thiện là đồng bằng Blao Siêng.
 
Đồng bằng này gồm nhiều đất phù sa úng thủy và dễ bị lụt về mùa mưa, vì thiếu hệ thống thoát thủy. Trước đây vào năm 1958-1960, có một vài địa điểm dinh điền tại đồng bằng Lạc Thiện, sau này vì tình hình an ninh nên các địa điểm này không còn hoạt-đông, Một khi hòa bình vãn hồi, cần tái lập và đem thêm nông dân vào đây lập nghiệp vì ở đây đất tốt và còn bỏ hoang nhiều.
 
Ngoài lúa, có thể trồng rau cải, mía, hoa màu phụ. Có thể đào hồ nuôi thêm cá để tận dụng đất đai và ngoài ra lại có thêm nguồn thực phầm nhiều protéin cho nông dân.

Mời đọc Phần 2

https://www.facebook.com/groups/124948084959931
 
PHỤ TRÁCH BIÊN TẬP
 
Sáng lập & Cố vấn:

TRẦN ĐĂNG HỒNG, PhD

Ban Biên tập :

VÕ THANH NGHI
vothanhnghiag@yahoo.com.vn
NGUYỄN THANH LIÊM
liem68dvb@gmail.com


Địa chỉ liên lạc: thnlscantho.3@gmail.com


Đặc San:
Đặc san XUÂN CANH DẦN (2010)
Đặc san XUÂN TÂN MÃO (2011)
Đặc san XUÂN NHÂM THÌN (2012)
Đặc san XUÂN QUÝ TỴ (2013)
Đặc san XUÂN GIÁP NGỌ (2014)
Đặc san XUÂN ẤT MÙI (2015)
Đặc san XUÂN BÍNH THÂN (2016)
Đặc san XUÂN ĐINH DẬU (2017)

Đặc san "Lưu Bút Ngày Xanh I (2010)
Đặc san Lưu Bút Ngày Xanh II (2011)
Đặc san Lưu Bút Ngày Xanh III
https://www.facebook.com/groups/124948084959931/
 
https://www.facebook.com/groups/124948084959931/
 
Today, there have been 229193 visitors (434499 hits) on this page!