14/9/2020
Tỉnh thứ hai Trung Quốc , sau Vân Nam, có biên giới chung với Việt Nam ,cần biết rõ hơn:
Tỉnh Quảng Tây hay Vùng Tự Trị Tộc Dân Tráng
G S Tôn Thất Trình
Phần II : Phát triển kinh tế Quảng Tây
Kể từ năm 1949 , Quảng Tây đã tiến bộ lớn về phát triễn Kinh tế . Đập , kênh đào ,và hồ dự trữ đã được xây dựng lên để tưới tiêu các đất đai khô hạn, các trạm thủy điện được xây cất và các tài nguyên khóang chất được khai thác để khích lệ công nghệ cận đại và công nghệ nông thôn cũng được phát triễn để đa lọai hóa nền kinh tế làng xã . Quảng Tây đã trở thành tự túc lúa gạo và thật tế đã xuất khẩu gạo thặng dư qua Quảng Đông . Vùng Kinh tế Vịnh Bắc Bộ ( Vịnh Bắc Kỳ - Golf of Tonkin) được thiết lập năm 2006 , hầu đề xướng Quốc tế tham gia và phát triễn vùng Vịnh Bắc Kỳ .
Quảng Tây có vài trầm tích than đá và quặng sắt để hổ trợ cho một phát triễn khiêm tốn công nghệ . Than đá được khai thác ở Quế Lâm và Nam Liễu Châu và quanh Bise ở phía Tây . Sắt được khai thác ở vùng gần biên giới Quảng Đông- Hồ Nam cũng như ở Đông Nam Quảng Tây .Các tài nguyên khóang chất khác khai thác là thiếc , tungsten , măng gan và ăng ti moan – antimony . Cơ sở thủy điện to lớn Long tân ?-Long tan hòan tất năm 2008 trên sông Hồng Thủy – Hongshui Ở Tây Bắc Quảng Tây . Điện cũng được phát xuất từ các nhà máy nhiệt điện . Tiêu thụ điện gia thất lan tràn, nhờ dùng khí nhiên liệu của các phế thải con người hay động vật. Mạng lưới điện Quảng Tây sẽ đầu tư 4.6 tỉ yuan cải thiện mạng lưới trong thời gian Kế họach Ngũ niên thứ 11 . Đến giữa năm 2007, Quảng Tây đã đầu tư 2.5 tỉ Yuan , trong số này , 2.3 tỉ nhắm vào dự án xây dựng mạng lưới điện chánh. Cho đến nay 4 trạm phụ biến điện mới đang ở nhiều giai đọan hòan tất . Trạm phụ Văn Phủ - Wenfu đã họat động ở Thành phố Hà Trì - Hechi tháng giêng năm 2007 và đã trở thành trung tâm chánh yếu cho hệthống điện quanh 3 phủ huyện. Khi trạm phụ Cảng vũ – Cangwu hòan tất , nó sẽ tăng gấp đôi khả năng trạm biến điện địa phương . Tháng 6 năm 2007 , trạm phụ Trùng Tả - Chongzuo đã làm xong thử nghiệm . Tháng đó , Kỳ Long – Quilong cũng bắt đầu sản xuất , sẽ hổ trợ hệ thống điện ở Thànhphố Kỳ Long cũng như miền Bắc Quảng Tây và làm dễ dải dự án khắp Trung Quốc chuyễn điện từ Tây sang Đông .
Nông Lâm Ngư
Chỉ vài vùng nhỏ bé Qủang Tây là trồng trọt được . Nông nghiệp tập trung ở các thung lũng sông và các đồng bằng đá vôi . Núi đồi thường làm các ruộng bậc thang những nơi nào làm được . Kể từ thập niên 1950 , chánh phủ đã mở rộng thêm đất canh tác mới bằng dẫn thủy nhập điền và máy cày . Hoa màu chánh là lúa gạo , bắp ( ngô ) , lúa mì và kjoai lang . Hoa màu thương mãi chánh là mía và đậu phụng ( lạc ) , mè , gai sợi-ramie ( cỏ Tàu – china grass ), thuốc lá , bông vãi và chàm – indigo . Quảng Tây cũng sản xuất nhiều lọai trái cây ( ăn quả ) . Nuôi gia súc tùy thuộc vào nông trang . Trâu dùng để kéo xe tại các ruộng lúa dù cho có sự cố cơ giới hóa. Heo ( lợn ) , gà , vịt được nuôi ở nông trang và dê nuôi trên đồi . Nhiều vùng trồng dâu nuôi tằm .
Lâm nghiệp Qủang Tây ( nếu trùng với phần I, xin hủy bỏ ) sản xuất gỗ kiến trúc và sản phẩm rừng quan trọng . Ỏ miền Bắc khai thác rất nhiều thông .,linh sam – fir và tre khổng lồ ( lồ ô ? ), thông tuyết ( thông bá hương)- cedar . Gỗ đàn hương –sandalwood màu đỏ , đen cũng được sản xuất ở miền Tây. Quan trọng hơn nữa là sandarac , một lọai nhựa – resin dùng làm vẹc ni – varnish và giang ( thang đèn) – incense, đại hồi anít Tà u – Chinese anis, vỏ quế bì - quế tàu Cinnamomum cassia ( Chinese Cinnamomum ) có lẽ không tốt bằng quế Thanh ( quế Sài gòn, quế Qùi, cannelier royal) mọc ở Trường Sơn từ Thành Hóa vào Nam và vú lá – nutgall vết sưng trên cây sồi – oak trees dùng làm tannin và long nảo- camphor . Dầu tùng , dầu trà ( chè ) và dầu thì là –fennel oil cũng được sản xuất ở Quảng Tây . Vài loại này và các sản phẩm khác là những thành phần cốt cán cho Đông Y Tàu ( Thuốc Bắc ? ) .
Đánh bắt thủy sản cũng phổ thông ở Quảng Tây . Cả đánh bắt trong lục địa và ngòai khơi ở Vịnh Bắc Kỳ là nơi có nhiều luồng cá đông đảo , giàu có nhất thế giới . Đánh bắt gồm có cá nạng – croaker ( vì tiếng cá kêu ộp ọạp – croak ), cá trích – herring , mực , tôm , lươn , cá vượt – perch, cá thu – mackerel , cá mập và cá tầm – sturgeon . Đánh bắt cá con ở nhiều dòng sông suối để nuôi thủy sinh – aquaculture là đặc điểm ngành đánh cá nước ngọt . Nuôi cá và nuôi tằm bổ sung nhau : kén tằm phế thải dùng nuôi cá và bùn hồ nuôi cá dùng làm phân bón cho các vườn dâu lá nuôi tằm . Nuôi ngọc trai quan trọng ở gần Hà Phổ - Hepu, cạnh bờ biển Vịnh Bắc Kỳ đã nổi tiếng là “ ngọc trai đẹp miền Nam Trung Quốc “ .
Công nghệ
Công nghệ nhẹ sản xuất tơ sợi , bột giấy , tơ lụa , da thuộc và diêm quẹt , hóa chất và dược phẩm cũng như gôm sandarac , đường mía, thuốc nhuộm , dầu ăn và chất béo . Nhựa thông là một xuất cảng đáng kể của Vũ Châu. Công nghệ nặng là các ngành sắt và thép ỏ Liễu Châu, Hà Trì và Lữ Giai – Luzhai, sản xuất máy móc ở Nam Ninh và Vũ Châu , xi măng ở Liễu Châu. Các tiểu công nghệ vô số kể Quảng Tây gồm áo quần bông vải và gai sợi , giấy tre , giấy rơm rạ lúa và lược tre . Kể từ thập niên 1980 , nhiều ngành công nghệ phát triễn mau lẹ tỉ như các nhà máy làm xe hơi – ô tô , các động cơ diesel nặng và phân bón hóa học .
Đầu tư
Lớn nhất là Đài Loan. Riêng năm 2007 , có 71 côngty tư bản hiểm nguy Đài Loan khởi thủy ở Quảng Tây, đầu tư 149 triệu đô la Mỹ và xuất khẩu ròng – gross exports trên 1 tỉ đô la . Tinh đến cuối năm 2006 , Đài Loan đã có 1182 công ty tư bản hiểm nguy ở Quảng Tây , đưa tổng số đầu tư lên đến 4. 25 tỉ $ . Giữa năm 2007 , 43 dự án trị gía 2.6 tỉ RMB ( 342 triệu $ ) đã ký kết khế ước giữa Quảng Tây và các nhà đầu tư Đài Loan . Hợp tác liên hệ chánh yếu giữa các công ty Quảng Tây và Đài Loan là chế tạo , các công nghệ điện tử cao kỷ , nông nghiệp , tài nguyên năng lượng và du lịch .
|
Nam Ninh |
Các Khu công nghệ và thành phố - thị trấn lớn Quảng Tây đáng thăm viếng ngày nay là :
- Khu công nghệ Trung tâm là Nam Ninh và Liễu Châu
- Khu công nghệ Phía Đông là Vũ Châu và Quế ( Quý ) Lâm, gần biên cương các tỉnh phía Đông Trung Quốc là Hồ Nam và Quảng Đông
- Khu công nghệ Phía Nam là Khâm Châu , Bắc Hải, Phương Thành Cảng
Năm 1999 , Nam Ninh có 2 859 000 người, GDP là 27.6 tỉ RMB , và giá trị công nghệ là 18.7 tỉ RMB . Đầu thế kỷ thứ 20, Nam Ninh là một thị trấn buôn bán tương đối nhỏ , nhưng phát triễn mạnh sau năm 1949 . Nay là một thành phố công nghệ phồn thịnh. Nam Ninh nằm trên sông Dũng –yong, một phụ lưu của sông Châu ( Pearl river ) hình thành một thung lũng phì nhiêu, phía Bắc các núi dựa trên biên giới Việt Nam. Công nghệ chế tạo gồm có sắt và thép , aluminium , chế biến thực phẩm , phân bón hóa học và máy móc cơ học .
Năm 1999 , Liễu Châu dân số là 1804 000 người , GDP là 17.5 tỉ RMB , trị giá công nghệ là 27.1 tỉ RMB . Liễu Châu cách Đông Bắc Nam Ninh 200 km trong một khúc sông Liễu – Liu uốn cong ngặt . Nay Liễu Châu là trung tâm công nghệ lớn nhất Quảng Tây , dù rằng như mọi thành phố Vùng tự trị , vẫn chưa phát triễn gì mấy năm 1949. Liễu Châu có nhiều xa lộ chánh và đường xe lữa gíúp cho Thành phố thành một trung tâm địa phương quan trọng . Nổi tiếng về máy móc , thiết bị điện tử và hóa chất . Liễu Châu cũng vang danh về các sản phẩm đồ gỗ và giấy. Liễu Châu là một trung tâm xe hơi motor chánh yếu . Hảng Hoa Kỳ General Motors có một căn cứ chế tạo ở đây , làm một công ty tư bản hiểm nguy chung sức tên là SAIC- GM – Wuling Automobile . Thành phố cũng đã có một xưởng thép lớn và nhiêu công nghệ liên quan . Chánh quyền vùng tự trị hy vọng sẽ nới rộng thêm khu vực chế tạo và trong khi lập Kế họach Ngũ niên Tàu, năm 2011 đã dành riêng 2.6 ngàn tỉ - trillion RMB đầu tư vào Khu Kinh tế Vịnh Bắc Bộ ( Bắc Kỳ ) .
|
Kỹ nghệ hàn xe trong 1 xưởng xe ô tô ở Liễu Châu (LiuZhou) Quảng Tây |
Năm 1999, Vũ Châu đã có 2 707 000 người, nằm dọc theo Sông Châu và chỉ cách biên giới Quảng Đông vài km . GDP năm đó là 11.6 tỉ RMB và trị giá sản xuất công nghệ là 11.4 tỉ RMB . Từ thế kỷ thứ 18 , đã nổi danh về thuốc lá và thuốc cây cỏ đông y. Vũ Châu nằm trên đường nhiệt đới Tropic of Cancer cách Nam Ninh đôi chút về phía Bắc .
Năm 1999 , Quế ( Qúy ) Lâm đã có 4 792 000 người ( để so sánh, dân số Sài Gòn năm 1999 là 5 0 73 000 người và Hà Nội là 2 672 000 người ); Cũng vào năm 1999 , GDP Quế Lâm là 27.6 tỉ RMB và sản phẩm công nghệ trị gía 22,2 tỉ RMB. Quế Lâm nằm về phía Đông Bắc Quảng Tây , cách biên giới Hồ Nam chừng 80 km. Đây là một trung tâm chuyên chở và công nghệ quan trọng , nhưng lại nổi tiếng nhiều hơn nữa, nhờ là vị trí cảnh quan đẹp đẽ của các đỉnh núi đá vôi phi thường các nhà thơ và họa sĩ Tàu cổ điễn đặc sắc trình bày . Các họat động kinh tế Quế Lâm gồm đánh cá , chế biến thực phẩm và chế tạo phân bón hóa học , đồ cao su , tơ sợi, máy móc , thiết bị điện tử . Và khai thác các mỏ thiếc và tungsten kế cận.
Năm 1999, dân số Khâm Châu – Qinzhou là 3148 000 người , GDP là 12.8 tỉ RMB và sản phẩm công nghệ trị giá 6.2 tỉ RMB . Khâm Châu rất gần bờ biển và cách Nam Ninh chừng 100km về phía Nam . Năm 1999, dân số Bắc Hải- Beihai chỉ là 139 000 người , nhưng GDP lên đến 10.8 tỉ RMB và sản phẩm vông nghệ trị giá 8.8 tỉ RMB . Bắc Hải nằm trên một bán đảo phía Đông Nam Quảng Tây , cách bán đảo lớn hơn là Leizhou tỉnh Quảng Đông khỏang 70km. Bắc Hải nổi tiếng về ngọc trai đẹp .
Năm 1999 , Phương Thành Cảng – Fangchenggang có 771 000 người , GDP là 5.5 tỉ RMB , sản phẩm công nghệ trị gía 3.9 tỉ RMB,nằm trên một bán đảo còn nhỏ hơn nữa phía Tây Bắc Hải , cách Khâm Châu về phía Tây Nam , khỏang 50 km. Đây là một hải cảng ưu tú .
Tưỏng cũng không nên quên vùng kinh tế biên giới với Việt Nam ( qua Nam Quan , Đồng Đăng , Lạng Sơn ….) là Bằng Tường - Pin Xiang, thiết lập năm 1992; diện tích 720 ha ( 7.2 km2, 2.8 dặm Anh vuông ) , tụ điểm vào phát triễn các sản phẩm phần cứng cơ học và điện , chế biến hóa học cần dùng hằng ngày , dịch vụ, công nghệ tồn trữ và thông tin căn cứ hậu cần- logistics based .
Tuy vậy , những năm gần đây, nền kinh tế Quảng Tây đã mất nhuệ khí , phải đứng sau tỉnh Quảng Đông , tỉnh giàu có láng giềng và anh em sinh đôi . Năm 2011, GDP Quảng Tây là 1171 tỉ đồng yuan ( 185.9 tỉ $ US ) và chỉ đứng hàng thứ 18 ở Trung Quốc . GDP mỗi đầu người Quảng Tây năm đó là 15 800 yuan ( 2300 $US ) . Nên nhớ là năm 1999 GDP mỗi đầu người Quảng Tây chỉ đến 4 148 RMB ( chừng 600 $ , dân đô thị 5619 RMB ( chừng 800 $ ) và dân nông thôn 2048 RMB ( chừng 300 $ ). Năm 2000, lợi tức mỗi đầu dân Sài Gòn chỉ là 2180 $ và trung bình cả nước là trên 400 $. Năm 2013 , lợi tức mỗi đầu người Sài Gòn leo lên đến 4500 $ .
Ngành du lịch đặc biệt hướng về thành phố Quý ( Quế) Lâm , tăng nhanh chóng vào thập niên 1980 và trở thành một nguồn lợi tức lớn cho Quảng Tây. Địa hình karst khác biệt và ngọan mục gần Quế Lâm là một nơi du lịch phổ thông nhất của Trung Quốc . Đáng kể thêm là đi chơi biển dọc Sông Lý Giang – Li jiang từ Quế Lâm đến Dương Thạc – Yangshuo phong cảnh giống hệt các bức tranh vẽ cổ điễn Tàu . Cảnh quan đá vôi karst các đồi núi , các núi hình nón và hình trụ đã là nguồn cảm hứng cho nghệ sĩ và thi sĩ Trung Quốc từ thời xa xưa và cũng được trình bày trên các tờgiấy tiền tệ Trung Quốc . Thác Đức Thiên -Detian hay thác Bản Giốc ? ( Trung Quốc chiếm một phần của Việt Nam năm 1979 ?) nằm ngang qua biên giới Trung Quốc và Việt Nam hình thành từ các dòng sông suối độ cao và kích thước khác nhau chảy xuống rừng theo 3 tầng bậc. Được xem là một trong những thác đẹp nhất Trung Quốc . Bản Giốc có cảnh quan hay đổi 4 mùa .
|
Chùa Tháp ban đêm ở Quế Lâm |
Chuyên chở
Hệ thống đường sông phức tạp Quảng Tây cống hiến chuyên chở thuận tiệ n gần khắp Vùng Tự Trị. phần lớn giao thông là thuyền , dù rằng nhiều phần sông đi lại được bằng tàu có động cơ và các tàu chạy hơi nước . Khi các dự án cải thiện vài đường sông hòan tất , các tàu chạy hơi nước 1000 tấn có thể đi từ Nam Ninh đến Quảng Châu ,thuộc tỉnh láng giềng Quảng Đông vào thập niên 2000.
Đường xe lữa Hồ Nam – Quảng Tây (còn có tên là đường Tường- Quế, Qúy – Xianggui Line ) cắt xéo (chéo ) góc suốt Vùng , từ Đông Bắc đến Tây Nam . Đây là mạch sống lục địa khẩn thiết nối đường xe lữa Bắc Bình – Quảng Châu và ở phía Nam Bằng Tường – Pingxiang với hệ thống xe lữa Việt Nam . Đương chạy ngang qua 3 Thành phố lớn Quảng Tây là Nam Ninh , Liễu châu và Quế Lâm. Đa số đường xe lữa Quảng Tây khác đều nố vào đường Xianggui. Một nhánh chạy từ Lý Đường – litang đến thành phố hải cảng Trường Giang – Zhanjiang ở tỉnh Quảng Đông . Đường xe lữa Quảng Tây – Quế Châu nối Liễu Châu với Quý, Quế Dương ( tỉnh Quế Châu ) song song với đường Liễu Châu - Chí Thanh (Zhicheng) khai trương năm 1978 đã là một động lực thúc đẩy phát triễn miền Bắc Quảng Tây . Một đường xe lữa mới, hoàn tất năm 1997, nối Côn Minh ( Vân Nam ) với Nam Ninh và Bắc Hải - Beihai trên bờ biển Vịnh Bắc Kỳ , giúp cho các tỉnh Tây Nam một con đường trực tiếp đến cảng biển này.
Hệ thống xa lộ cũng đã được nới rộng đáng kể , từ năm 1949. Mạng xa lộ làm ra một hình chữ nhật trung tâm , có Nam Đàn- Nandan ( Tây Bắc ) ,Liễu Châu , Nam Ninh và Baise ( Tây ) ở 4 góc , từ đó tỏa ra các đường khác . Cao tốc Quế Lâm - Bắc Hải , cắt đôi Quảng Tây từ Bắc chí Nam , được khánh thành năm 2000 . Các cao tốc từ Đông Bắc Nam Ninh đến Liễu Châu , phía Nam đến Phương Thành Cảng- Fangchenggang và phía Tây Nam đến Hữu Nghị Quan – youyiguan sát cạnh biên giới Việt Nam , cũng được khánh thành đầu thế kỷ thứ 21 . Đường hàng không , trọng tâm là Nam Ninh , Liễu Châu và Quế Lâm, phần lớn là bay đến các thành phố Trung Quốc khác , với vài chuyến bay đi ra ngoại quốc quanh Vùng .
…
( Irvine , Nam Ca Li, ngày 11 tháng 10 năm 2015 ) |